Hiển thị các bài đăng có nhãn Tin môi trường. Hiển thị tất cả bài đăng
Các dòng sông ô nhiễm nặng ở Hà Nội tương lai sẽ như thế nào?
“Tập trung xây dựng, triển khai các phương án tạo cảnh quan, xử lý môi trường nước, từng bước làm “sống lại” sông Tô Lịch, sông Tích, sông Nhuệ và sông Đáy” là một trong những mục tiêu cụ thể trong Nghị quyết số 11-NQ/TU.
Trước hết, TP Hà Nội sẽ tập trung chỉ đạo xử lý ô nhiễm nước sông Tô Lịch, bảo đảm dòng chảy vào mùa khô; hoàn thành đúng tiến độ Đề án tổng thể bảo vệ môi trường lưu vực sông Nhuệ – sông Đáy. Từ nay đến năm 2020, thành phố phấn đấu hoàn thành việc tách nước thải đưa về hệ thống xử lý tập trung trước khi đổ vào hồ, xử lý thành công tất cả các hồ nội thành và các hồ gắn với di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh bị ô nhiễm nghiêm trọng.
Một số mục tiêu khác là: 100% người dân ở nông thôn được dùng nước sạch; 100% số hộ có các công trình vệ sinh đạt tiêu chuẩn; 100% các khu, cụm công nghiệp hiện đang hoạt động hoàn thành hệ thống xử lý nước thải tập trung, bảo đảm xử lý đạt Quy chuẩn Việt Nam trước khi thải ra môi trường; 100% các bệnh viện và trung tâm y tế do thành phố quản lý có hệ thống xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn môi trường…
Ngoài ra, TP Hà Nội xác định mục tiêu đối với chất thải rắn: Tỷ lệ rác thải sinh hoạt được thu gom, xử lý khu vực đô thị đạt 100%; khu vực nông thôn đạt từ 95% đến 100%; phấn đấu giảm tỷ lệ chôn lấp rác thải còn 30%, tăng tỷ lệ rác thải được tái chế theo công nghệ tiên tiến hiện đại. Thành phố cũng phấn đấu thu gom 100%; xử lý 80% chất thải rắn công nghiệp. Thành phố sẽ quy hoạch để đưa các công đoạn sản xuất gây ô nhiễm lớn tại các làng nghề ra khu sản xuất tập trung; yêu cầu xây dựng hệ thống xử lý nước thải trước khi xả ra môi trường đối với số hộ có nghề có nguồn xả thải. Để giảm ô nhiễm bụi, thành phố chỉ đạo 100% các công trường xây dựng phải được che chắn và áp dụng các biện pháp giảm bụi…
Để thực hiện mục tiêu trên, Nghị quyết nêu rõ 3 nhiệm vụ trọng tâm và 4 giải pháp chủ yếu. Trong đó, Ban Thường vụ Thành ủy xác định sẽ tập trung chỉ đạo đầu tư dự án Trạm bơm Liên Mạc giai đoạn 1 đã được phê duyệt, nhằm điều hòa mực nước giữa sông Hồng và sông Nhuệ, tạo nguồn cấp nước cho sông Tô Lịch… Chương trình thu gom và xử lý nước thải của thành phố trên lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy giai đoạn 2017 – 2020 và các chương trình chống ngập, khơi thông dòng chảy tại sông Nhuệ, sông Đáy, sông Tô Lịch, sông Tích… sẽ được chỉ đạo triển khai đồng bộ.
Ps: Green Trees sẽ giám sát tiến trình của các đề án cụ thể theo Nghị quyết số 11-NQ/TU
TP. Đà Nẵng: Cử tri bức xúc vì vấn đề ô nhiễm môi trường tại Hội đồng nhân dân
TP. Đà Nẵng được biết đến là thành phố phát triển nhanh về kinh tế và du lịch của Việt Nam. Tuy nhiên, trong kỳ họp gần đây giữa Hội đồng nhân dân thành phố với các cử tri qua chương trình “Giám sát việc kiến nghị của cử tri”, đã có nhiều ý kiến bức xúc từ phía cử tri phản ánh về những “điểm đen” môi trường đang từng ngày “bức tử” người dân.
Người dân bức xúc chỉ chỗ nước thải ra từ Nhà máy thép Dana -Úc
Một trong những “họng cống” bốc mùi hôi thối trên con đường ven biển thuộc phường Thọ Quang, Đà Nẵng
Dòng nước xả thải ra từ côn kênh Phú Lộc có lúc đục ngầu, đen đúa và bốc mùi hôi hám khó chịu
Con kênh “đen” đang ngày ngày “bức tử” thành phố: Cử tri của thành phố Đà Nẵng có phản ánh tình trạng con kênh Phú Lộc nằm trên địa bàn quận Thanh Khê nhưng nhánh chảy của nó dài hàng km chảy qua quận Liên Chiểu. Mà đoạn kênh này là khu vực tập trung nhiều khu công nghiệp ở Hòa Khánh, khu dân cư lao động… Vì vậy, con kênh chính là nơi hứng các nguồn nước xả thải từ khu công nghiệp, khu dân cư trước khi đổ ra biển Đà Nẵng. Điều đó cũng lý giải vì sao nước con kênh luôn có màu xanh đen, đục ngầu và thi thoảng lại thấy cá chết nổi trắng mặt kênh. Chính tình trạng ô nhiễm của con kênh Phú Lộc đã gây nên sự bức xúc kéo dài nhiều năm nay của người dân sống trong khu vực gần con kênh. Mặc dù, thành phố đã tìm nhiều giải pháp để khắc phục tình trạng ô nhiễm của con kênh nhưng kết quả vẫn chưa triệt để và chưa thỏa ý nguyện của người dân. Vậy nên, con kênh Phú Lộc vẫn đang là “điểm đen” môi trường của thành phố Đà Nẵng cần được ưu tiên giải quyết.
Những bãi rác tự phát trên vỉa hè Đà Nẵng gây mất mỹ quan đô thị và có mùi hôi thối
Lá phổi xanh Sơn Trà bị “đâm nát” bởi sắt thép các dự án du lịch
Hãy nhìn Bắc Kinh để thấy tương lai của TP.HCM khi phát triển nhiệt điện vô tội vạ!
Trong khi Trung Quốc vừa hoàn tất đóng cửa tổ máy cuối cùng của nhà máy điện Hoa Năng, phía Nam Bắc Kinh vào ngày 18/03, đưa thành phố này trở thành đô thị đầu tiên trong nước chấm dứt sử dụng năng lượng điện từ than đá. Thì cùng thời điểm trên, người ta lại đề xuất xây dựng hai nhà máy nhiệt điện than ở Long An trị giá 5 tỷ USD ngay sát khu vực gần biển Cần Giờ (TP.HCM), đặt ra mối lo ngại lớn về nguy cơ ô nhiễm môi trường và đe dọa sức khỏe của người dân TP và khu vực.
Chẳng đâu xa, hãy nhìn bầu không khí ô nhiễm, nồng nặc axit của Bắc Kinh để thấy tương lai TP.HCM. Người ta còn nói đùa rằng, tại Bắc Kinh, bầu trời xanh duy nhất chỉ có trên màn hình tivi và trong ký ức của người dân mà thôi. Nếu chọn phát triển nhiệt điện than thì những hệ lụy ô nhiễm môi trường, lẫn thiệt hại kinh tế mà Trung Quốc đã và đang gánh chịu sẽ là tương lai của Việt Nam. Trước đây, tổ chức phi lợi nhuận Carbon Tracker Initiative (trụ sở London) đã đưa ra cảnh báo Trung Quốc có nguy cơ lãng phí gần 500 tỷ USD vào những nhà máy nhiệt điện than mới. Điều này đã trở thành sự thật khi trong hai năm 2016, 2017 Trung Quốc liên tiếp đóng cửa các nhà máy.
Một nguyên nhân lớn khiến Bắc Kinh ô nhiễm trầm trọng do các nhà máy nhiệt điện xả thải
Còn Việt Nam thì sao? Đến thời điểm hiện tại, không có nước nào phát triển nhiệt điện than nhanh như ở Việt Nam, theo quy hoạch đến năm 2030 cả nước sẽ có 80 nhà máy nhiệt điện than (hiện nay có 20 nhà máy), riêng đồng bằng sông Cửu Long sẽ có 14 nhà máy.
Xây dựng nhiệt điện than là đi ngược lại với xu hướng của thời đại vì nhân loại đang hướng tới năng lượng sạch. Bằng chứng là, ở Châu Âu 109 nhà máy nhiệt điện than đã bị đóng cửa. Ở Mỹ 165 nhà máy nhiệt điện than đã ngưng hoạt động, 179 dự án xây mới bị hủy bỏ. Một số quốc gia cũng đã có lộ trình bỏ các nhà máy nhiệt điện than như Anh đến năm 2025, Pháp đến năm 2023, Canada năm 2030. Trung Quốc, nước sản xuất năng lượng từ than cao nhất thế giới cũng đã đóng cửa nhiều nhà máy nhiệt điện than và ngưng các dự án đang thi công – năm 2016 ngưng 18 dự án điện than, đầu năm 2017 ngưng 85 dự án và mới đây, ngày 18/3 thành phố Bắc Kinh đã cho đóng cửa nhà máy nhiệt điện than cuối cùng.
Hai nhà máy nhiệt điện Long An có vị trí ngay sát TPHCM, đe dọa trực tiếp đến chất lượng không khí và tính mạng của người dân TP
Theo các chuyên gia, việc đặt nhà máy nhiệt điện than ở Cần Giuộc, ô nhiễm không khí TP.HCM sẽ tăng mạnh. TP.HCM có thể thường xuyên bị mù khô, sương mù giống như ở Bắc Kinh (Trung Quốc), thậm chí là mưa a xít.
Nhiệt điện than là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây ô nhiễm nguồn nước và không khí. Hiện nay, vấn đề xỉ than và tro bay sau quá trình đốt lên đến cả triệu tấn/năm phải làm thế nào ? Ngay cả nước có công nghệ tiên tiến như Mỹ cũng chỉ xử lý được 40% xỉ than.
Tại Hội thảo “Than và nhiệt điện than: Những điều chưa biết” do Trung tâm Phát triển Sáng tạo Xanh (GreenID), đại diện cho Liên minh Năng lượng bền vững Việt Nam (VSEA) tổ chức ngày 29/9/2014 đã đưa ra một thống kê gây sốc. Tại Việt Nam có khoảng 4.300 người Việt chết yểu liên quan đến nhiệt điện than. Dự báo, khí thải than ở Việt Nam sẽ tăng gấp 3 lần vào năm 2030, nếu không cắt giảm, lượng khí thải được dự báo này có thể dẫn tới cái chết của hơn 25.000 người mỗi năm (kết quả nghiên cứu của Trường Đại học Harvard). Đó là chưa nói đến chi phí y tế khổng lồ về sức khỏe của người dân.
Hiện nay Trung Quốc đang đóng cửa dần các nhà máy nhiệt điện than và tương lai sẽ bỏ hoàn toàn, nhưng họ lại làm tổng thầu hầu hết các nhà máy nhiệt điện than ở Việt Nam. Theo thống kê của Bộ Công Thương, tính đến tháng 4/2014, Trung Quốc làm tổng thầu trọn gói 15 trong số 20 dự án nhiệt điện đang thi công (chiếm 75%).
Sơ đồ các nhà máy nhiệt điện than tại khu vực ĐBSCL
Có hay chăng việc Trung Quốc sẽ sử dụng thiết bị cũ từ nhà máy đóng cửa, tân trang lại rồi bán cho Việt Nam? Đối với anh bạn phương Bắc thâm hiểm này, không gì là không thể? Và hậu quả tất yếu là ô nhiễm môi trường, công nghệ lạc hậu, chi phí bảo trì, bảo dưỡng cao…Không phải đợi mười năm, hai mươi năm sau chúng ta mới thấy hậu quả từ sai lầm của chủ trương phát triển nhiệt điện than mà bây giờ nó đã hiện hữu trước mắt – sự cố ô nhiễm tại nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 2 (Bình Thuận) hồi tháng 4 năm 2015 có nguy cơ tái diễn.
Mặc kệ những cảnh báo phát triển nhiệt điện than là đi ngược lại với xu thế thời đại, hay khẳng định của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc về việc “Không chấp nhận đánh đổi môi trường vì lợi ích trước mắt”, dường như người ta vẫn bất chấp mọi hậu quả, kể cả mạng sống của người dân để “có năng lượng phát triển kinh tế”? Vì tầm nhìn hạn hẹn hay vì lợi ích một nhóm người nào đó, người ta mặc cho đất nước bị tàn phá, mặc sự sống của người dân. Bài học từ việc phá rừng, xây dựng thủy điện, khai thác boxit, Formosa…còn nóng hổi, vậy tại sao không có sự điều chỉnh?
* PGS-TS Nguyễn Đinh Tuấn, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường TPHCM:
Hoạt động nhà máy nhiệt điện sử dụng nhiên liệu than dù có sử dụng công nghệ hiện đại đến đâu đi nữa, cũng có nguy cơ gây ảnh hưởng đến chất lượng môi trường. Những chất thải phát sinh từ hoạt động này chủ yếu sẽ là bụi, thải tro xỉ than, nước thải công nghiệp, chất NOx, SO2… sẽ tác động trực tiếp đến sức khỏe của người dân. Đáng chú ý, với vị trí này, nhà máy nằm ngay hướng đầu nguồn gió Tây Nam thổi về TPHCM nên sẽ tác động trực tiếp đến chất lượng môi trường sống người dân khu đô thị cảng Hiệp Phước, Phú Mỹ Hưng, quận 8 và quận 1. Trên thực tế, những tác hại ô nhiễm môi trường do nhà máy nhiệt điện sử dụng nguyên liệu than đá đã hiện hữu rất rõ. Đơn cử như nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân, Duyên Hải và Trà Vinh, những chất gây ô nhiễm khí thải nhẹ thì gây viêm hô hấp, nặng thì gây ung thư cho người dân. Do đó, việc xây dựng nhà máy nằm khu vực đầu nguồn gió TPHCM, cần phải suy xét lại.
* Tiến sĩ Phạm Viết Thuận, Viện Kinh tế tài nguyên và môi trường (thuộc Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật TPHCM):
Đặt vị trí xây nhà máy nhiệt điện giáp ranh với TPHCM là không hợp lý bởi tro xỉ nhiệt điện, khói thải cho dù có đưa lên cao tầng ống khói hơn 3.000 mét thì khi gặp gió Tây Nam đặc trưng của vùng này từ tháng 5 đến tháng 8 hàng năm, nhiều khả năng khói thải, tro xỉ sẽ luân chuyển trong không khí phát tán đến các khu đô thị, khu dân cư của TPHCM. Xét về kinh tế môi trường thì xây nhiệt điện ven sông Soài Rạp là không đủ điều kiện, bởi sẽ đánh đổi nhiều giá trị khác về hệ sinh thái, môi trường. Do phát triển nhiệt điện để đáp ứng nhu cầu điện cho vùng kinh tế phía Nam là cần thiết nên có thể tập trung các nhà máy nhiệt điện vào một khu vực, chẳng hạn tập trung phát triển tăng công suất nhiệt điện tại Trà Vinh – nơi có sẵn một số nhà máy nhiệt điện và cảng xuất nhập hiện hữu, dễ mở rộng.
* Các tác động trong suốt vòng đời của một nhà máy điện than siêu tới hạn điển hình 550-MW có kiểm soát ô nhiễm:
• 150 triệu tấn CO2
• 470.000 tấn metan
• 7.800 kg chì
• 760 kg thủy ngân
• 54.000 tấn NOx
• 64.000 tấn SOx
• 12.000 tấn bụi
• 4.000 tấn CO
• 15.000 kg N2O
• 440.000 kg NH3
• 24.000 kg SF6
• hút 420 triệu m3 nước hầu hết từ các nguồn nước ngọt
• tiêu thụ 220 triệu m3 nước
• thải 206 triệu m3 nước thải vào các dòng sông.
(Nguồn: Bộ Năng lượng, Phòng Thí nghiệm công nghệ năng lượng quốc gia Mỹ)
- Minh Trần -
Nói chuyện cây
Hai năm sau câu chuyện 6.700 cây xanh, nỗi ám ảnh của nó vẫn treo lơ lửng trên bầu trời mùa hạ 40 độ của thủ đô Hà Nội.
Hãy điểm lại những gì đã đi vào ký ức của cộng đồng: câu nói bất hủ “Chặt cây mà cũng phải hỏi dân à?”, buổi họp báo kéo dài vỏn vẹn 10 phút với 21 câu hỏi không được trả lời, các biểu ngữ “Tôi yêu cây” quanh hồ Gươm... Vĩnh viễn nằm trong trí nhớ của tôi và tôi tin chắc của nhiều người khác là câu hỏi mang tính hiện sinh sâu sắc: “Mỡ hay vàng tâm?”.
Dự án “Chặt hạ, thay thế 6.700 cây xanh” vì một đô thị “văn minh, hiện đại” đã lặng lẽ bị xếp xó với tất cả những “quy hoạch khoa học và triển khai đúng quy trình” của nó.
Nhưng dường như tới giờ, chính quyền Hà Nội vẫn chưa rút ra được đầy đủ những bài học về minh bạch, về giải trình, về nghệ thuật đối thoại và làm việc với dân, tóm lại, về những gì quan trọng trong quản trị nhà nước, khi tuần qua báo chí liên tiếp đưa tin: “Hàng cây 1.300 gốc sắp bị chặt hạ” và “Hà Nội đề xuất thay thế 4.000 cây xà cừ”.
Lúc thì những cái cây phải nhường chỗ cho “phát triển”. Lúc thì chúng “u bướu”, “cong”, “nghiêng”, “già cỗi”, “thiếu thẩm mỹ”, “rễ nông, dễ đổ” và “các nước tiên tiến không trồng”.
Đã đến lúc phải phân tích sâu hơn các luận điểm này.
Luận điểm đầu tiên: Cây xà cừ không thích hợp với các thành phố nhiệt đới; người Pháp đã sai lầm khi trồng chúng ở Việt Nam; chúng ta đã đúng khi từ những năm 1960 không trồng chúng nữa và bây giờ chúng ta phải triệt hạ chúng hoàn toàn.
Ý kiến này có cơ sở thế nào?
Tên Latin của xà cừ là Khaya senegalensis, khá dễ dàng xác định nó xuất xứ từ châu Phi, nhưng trong thế kỷ 20 đã được trồng rộng rãi ở các quốc gia có khí hậu phù hợp khác.
Sau ba cái nhấn chuột, tôi gặp một tài liệu của Tổ chức quốc tế FAO về những chương trình phủ xanh đô thị của Chính phủ Malaysia từ thập kỷ 1970 tới 1990 nhằm biến đất nước này thành một “Quốc gia - Vườn” (Garden Nation).
Vào những năm 1980, khắp nơi ở Kuala Lumpur người ta tiến hành phương pháp “trồng cây tức thì” (instant tree planting) trồng những thân cây lớn, làm xanh thành phố gần như sau một đêm.
Đoạn giữa tài liệu này có một câu khiến tôi mở to mắt: “Các loài cây không bản địa mang tên Khaya senegalensis được coi là lý tưởng cho chương trình này”. Kèm theo là bức ảnh hàng xà cừ cao hơn nhà ba tầng chạy dọc một con đường đầy xe cộ. Không thấy họ nói gì về chuyện “rễ nông, dễ đổ”.
Ngược lại, theo Trung tâm Nông lâm nghiệp thế giới, xà cừ có bộ rễ cái sâu, chắc và khỏe, khiến chúng chịu hạn và vừa chịu lũ lụt tốt, “có thể trồng được cả ở đất sình lầy”.
Hai cái nhấn chuột tiếp theo đưa tôi tới Singapore. Trang mạng của Vườn bách thảo Singapore (Singapore Botanic Gardens) cho biết về loài Khaya senegalensis như sau: “Xuất xứ: châu Phi nhiệt đới. Loài này đã được du nhập Đông Nam Á hơn một thế kỷ trước.
Vào thập kỷ 1980 tại Singapore, nó trở thành cây đường phố được ưa chuộng vì tốc độ lớn nhanh, dễ ghép và khả năng chịu đựng những điều kiện đô thị khắc nghiệt”.
Thế còn bên ngoài Đông Nam Á thì sao? Tiến sĩ Roger Anold của Trường ĐH North Carolina cho biết: “Khaya senegalensis hay được trồng nhằm mục đích cảnh quan và tiện nghi ở những vùng nhiệt đới tại các lục địa.
Ở Tây Phi, loài cây này đã trở thành cây đô thị quan trọng. Ở Úc, nó được trồng ở thành phố Darwin. Ở tỉnh Hainan, Trung Quốc, nó trở thành một trong những loài cây bóng mát và cây tiện nghi (amenity tree) phổ biến nhất”.
Thuật ngữ “amenity tree” trở đi trở lại. Theo giải thích của tiến sĩ Kim Coder - ĐH Georgia, “amenity tree” (tôi tạm dịch là cây tiện nghi) là một cây có khả năng tăng tính hấp dẫn và sự dễ chịu của không gian xung quanh nó bằng cách “cung cấp sự che chở, an ủi và trợ giúp tâm lý cho con người”, khiến họ “thoải mái và hạnh phúc hơn”.
Vậy là ở nhiều quốc gia khác, cây xà cừ không chỉ được coi là cây bóng mát đơn thuần. Kích thước khổng lồ của nó, cái gồ ghề, sần sùi chính những cái “u bướu”, “cong”, “nghiêng” của nó, những cái làm gai mắt các quan chức Hà Nội, lại khiến nó trở thành nguồn an ủi và che chở cho những cư dân đô thị, là nơi lưu giữ thời gian, ký ức, lịch sử, là cái tạo bản sắc cho nơi chốn, tạo cảm giác thuộc về.
Một gốc cây là một thực thể sống và mang trong mình các yếu tố văn hóa và tâm lý, những thứ khiến nó khác một cột ximăng có mái che.
Trong khi Sở Xây dựng Hà Nội toan loại bỏ cây xà cừ vì chúng mắc tội “già cỗi” thì ở Singapore, cây xà cừ do ông Lý Quang Diệu trồng vào tháng 11-1980 gần hồ Thiên nga (Swan Lake) nay đã cao 48m, được đưa vào danh sách cây di sản (Heritage Tree) cùng hàng trăm cây đầy “u bướu” khác.
Chính sự “già cỗi” của chúng đã biến chúng thành những “landmark” - những cột mốc cảnh quan cần được bảo vệ như những di sản thiên nhiên.
Những gốc xà cừ cổ thụ trên đường Phạm Văn Đồng (Hà Nội) -Nam Trần
Quay lại với 1.300 cây dọc đường Phạm Văn Đồng. Thật tiện lợi khi coi chúng là những vật cản trở “phát triển” và “sự thịnh vượng của con người”. Diễn ngôn này đang được dùng để biến thiên nhiên thành máy đẻ lợi nhuận.
Nhưng phát triển không có nghĩa là chặt hạ vô cảm. Giữ cây không có nghĩa là ưa thích đói nghèo, lạc hậu.
Ngược lại, những người không nhìn thấy sự uy nghi của những cánh rừng, không nhìn thấy phẩm giá của những gốc cây già trong thành phố và trân trọng giá trị của chúng trong cuộc sống hiện đại, cho rằng phải loại bỏ chúng để “phát triển”, sẽ có nguy cơ đi theo một đường hướng phát triển méo mó.
Các nhà chức trách Hà Nội sẽ phải có chứng cứ rất tốt, rất đầy đủ để chứng minh cho công luận rằng họ thực sự không có cách nào khác là phải chặt bỏ 1.300 gốc cây kia đi.
Và họ sẽ phải dành nhiều thời gian, không gian để đối thoại với người dân, với các tổ chức xã hội, với các nhà chuyên môn để tìm ra giải pháp tối ưu. Quan điểm cây phải nhường bêtông thì mới văn minh đã lỗi thời.
Một thành phố chỉ đầy cầu vượt, đường trên cao, cao ốc mà thiếu cây xanh, công viên, hồ nước... là một thành phố thảm hại.
Một chiến lược phát triển đô thị mà quên đi những điều này là một chiến lược nuôi dưỡng xung đột và sự bất bình âm ỉ giữa người dân với chính quyền, và tôi không cho rằng đó là di sản mà chính quyền Hà Nội đang hướng tới.
- Đăng Hoàng Giang -
Báo động tình trạng ô nhiễm môi trường sông Bắc Hưng Hải
Rác thải gây ô nhiễm nguồn nước sông Sài Thị (thuộc hệ thống sông Bắc Hưng Hải) tại xã Thuần Hưng (Khoái Châu, Hưng Yên).
Theo bạn đọc phản ánh, trong thời gian gần đây, tình trạng ô nhiễm môi trường nước mặt thuộc hệ thống thủy nông Bắc Hưng Hải, đoạn qua địa phận tỉnh Hưng Yên ngày càng nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân.
Trước thực trạng này, các cơ quan chức năng cần sớm tìm rõ nguyên nhân gây ô nhiễm, đồng thời xử lý nghiêm đối với các cơ sở sản xuất, nhà máy xả thải.
Hệ thống sông Bắc Hưng Hải (BHH) được xây dựng từ năm 1958, có tổng chiều dài hệ thống sông chính khoảng 232 km và hơn 2.000 km kênh nhánh các loại, chủ yếu ở các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh. Nguồn nước cấp cho hệ thống BHH lấy từ sông Hồng qua cống Xuân Quan, thuộc huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, phục vụ tưới, tiêu cho khoảng 110 nghìn ha đất canh tác lúa, hoa màu, cây công nghiệp; cung cấp nước cho chăn nuôi, thủy sản và nước sinh hoạt cho nhân dân trong khu vực. Hệ thống sông BHH thuộc địa phận tỉnh Hưng Yên có sông chính và các phụ lưu với tổng chiều dài hơn 100 km, cung cấp nước cho khoảng 50.000 ha đất canh tác và đầm hồ nuôi trồng thủy sản.
Hệ thống BHH được xây dựng với mục đích chính là cung cấp nước tưới, tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp; nhưng trong quá trình phát triển đô thị hóa và công nghiệp hóa, hiện nay hệ thống sông BHH phải đảm nhận thêm chức năng tiếp nhận nước thải dân sinh, nước thải từ các đơn vị sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, các bệnh viện, làng nghề, cơ sở chăn nuôi, thậm chí cả rác thải… với lưu lượng ngày càng lớn.
Ở tỉnh Hưng Yên, tổng lượng nước thải phát sinh trên địa bàn đang xả thải vào môi trường khoảng 134.401 m3/ngày đêm, chủ yếu xả thải vào sông BHH và các sông nhánh; trong đó, nước thải của các khu, cụm công nghiệp và các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ chiếm 28%; nước thải của các cơ sở y tế chiếm 2%; nước thải của khu dân cư, các làng nghề, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nhỏ lẻ, cơ sở chăn nuôi chiếm 70%. Phần lớn lượng nước thải chưa qua xử lý hoặc có qua xử lý cũng chưa đạt tiêu chuẩn.
Ngoài ra, tại đầu nguồn sông BHH phải tiếp nhận lượng nước bị ô nhiễm có nguồn gốc từ nước thải công nghiệp, dịch vụ, làng nghề, dân sinh dọc lưu vực sông Cầu Bây chạy qua quận Long Biên và huyện Gia Lâm (Hà Nội) qua cống Xuân Thụy. Ðây cũng là nguyên nhân làm nguồn nước sông BHH ngày càng bị ô nhiễm trầm trọng. Nước sông Cầu Bây mầu đen, sủi bọt trắng thường xuyên xả vào sông BHH, với tần suất ngày một tăng lên; mỗi tuần từ hai đến ba lần, mỗi lần kéo dài một đến hai ngày.
Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Hưng Yên Trần Ðăng Anh cho biết, nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng nêu trên do hệ thống sông BHH phải tiếp nhận nhiều nguồn nước thải với lưu lượng ngày càng lớn, dẫn đến quá tải; nhất là nước thải chưa được xử lý hoặc đã xử lý nhưng chưa đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về môi trường. Hệ thống sông BHH thường xuyên đóng để trữ nước nên tình trạng nước ứ đọng, không lưu thông, chủ yếu vào mùa khô cũng góp phần gây ô nhiễm. Việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường chưa được nghiêm, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các tỉnh, thành phố trong việc quản lý, xử lý nguồn nước xả thải gây ô nhiễm…
Trước tình trạng này, tỉnh Hưng Yên đã đưa ra giải pháp ngăn chặn, giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường trên hệ thống sông BHH như quy định các khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung phải có hệ thống thu gom, xử lý nước thải đạt giá trị giới hạn quy định tại cột A (đạt chuẩn A) của quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường. Triển khai mô hình phân loại, xử lý rác thải sinh hoạt hữu cơ tại hộ gia đình. Lắp đặt hệ thống nhận dữ liệu quan trắc tự động, thiết bị giám sát lấy mẫu tự động nước thải sau xử lý của các đơn vị có lưu lượng nước thải, khí thải lớn, tăng cường thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định bảo vệ môi trường, xử lý các hành vi gây ô nhiễm môi trường.
Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện các giải pháp bảo vệ môi trường hiệu quả chưa cao; nhất là việc ngăn chặn nguồn nước ô nhiễm từ sông Cầu Bây chảy vào hệ thống sông BHH. Do vậy, để giải quyết khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường nước sông BHH cần có sự vào cuộc và phối hợp của các bộ, ngành, địa phương cải tạo, nâng cấp toàn hệ thống sông BHH, bảo đảm sông BHH ngoài chức năng tưới, tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp hiện nay có thêm chức năng tiêu thoát nước thải cho công nghiệp, dân sinh trong tình hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của khu vực phát triển nhanh.
Xây dựng mạng lưới quan trắc tự động đánh giá chất lượng nước tưới tiêu trên hệ thống sông BHH gửi kết quả cho các tỉnh, thành phố có hệ thống sông BHH để cảnh báo người dân, các tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quan có biện pháp giảm thiểu ảnh hưởng.
Kiểm tra, đánh giá và xác định nguyên nhân làm nước sông Cầu Bây bị ô nhiễm; tăng cường thanh tra, kiểm tra theo thẩm quyền việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nhất là các cơ sở có phát sinh nước thải lớn xả thải vào hệ thống sông Cầu Bây. Sớm đầu tư, xây dựng đưa vào vận hành những công trình xử lý nước thải đô thị trên địa bàn quận Long Biên theo kế hoạch của UBND thành phố Hà Nội về việc phát triển hệ thống thu gom và xử lý nước thải đô thị TP Hà Nội giai đoạn đến năm 2020.
Các cơ quan quản lý thường xuyên trao đổi, chia sẻ thông tin về thực trạng các nguồn xả nước thải vào sông và chất lượng nước sông, các biện pháp đã và đang thực hiện nhằm khắc phục tình trạng nước sông bị ô nhiễm…
"Hệ thống sông Bắc Hưng Hải trên địa bàn tỉnh Hưng Yên có chín dòng sông, kênh (chiếm 25% tổng số sông, kênh điều tra, khảo sát trên địa bàn tỉnh Hưng Yên) bị ô nhiễm rất nghiêm trọng; 12 dòng sông, kênh ô nhiễm nghiêm trọng; 15 dòng sông, kênh ô nhiễm trung bình. Năm 2015 và 2016, khi lấy 165 mẫu nước mặt, phân tích 19 chỉ tiêu về môi trường, kết quả cho thấy 100% mẫu nước mặt có chỉ tiêu phân tích vượt quy chuẩn kỹ thuật; trong đó, có nhiều chỉ tiêu vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường từ vài lần đến hàng chục lần...".
(Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Hưng Yên)
"Nguồn nước sông Bắc Hưng Hải bị ô nhiễm nghiêm trọng không chỉ ảnh hưởng đến sản xuất mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người dân. Chúng tôi cho rằng, nguyên nhân chính là do một số nhà máy trên địa bàn xả thải. Ðề nghị các cơ quan chức năng xử lý nghiêm các doanh nghiệp cố tình vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường...".
VŨ THỊ TÌNH
(Xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên)
- PHẠM HÀ-
Theo bạn đọc phản ánh, trong thời gian gần đây, tình trạng ô nhiễm môi trường nước mặt thuộc hệ thống thủy nông Bắc Hưng Hải, đoạn qua địa phận tỉnh Hưng Yên ngày càng nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân.
Trước thực trạng này, các cơ quan chức năng cần sớm tìm rõ nguyên nhân gây ô nhiễm, đồng thời xử lý nghiêm đối với các cơ sở sản xuất, nhà máy xả thải.
Hệ thống sông Bắc Hưng Hải (BHH) được xây dựng từ năm 1958, có tổng chiều dài hệ thống sông chính khoảng 232 km và hơn 2.000 km kênh nhánh các loại, chủ yếu ở các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh. Nguồn nước cấp cho hệ thống BHH lấy từ sông Hồng qua cống Xuân Quan, thuộc huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, phục vụ tưới, tiêu cho khoảng 110 nghìn ha đất canh tác lúa, hoa màu, cây công nghiệp; cung cấp nước cho chăn nuôi, thủy sản và nước sinh hoạt cho nhân dân trong khu vực. Hệ thống sông BHH thuộc địa phận tỉnh Hưng Yên có sông chính và các phụ lưu với tổng chiều dài hơn 100 km, cung cấp nước cho khoảng 50.000 ha đất canh tác và đầm hồ nuôi trồng thủy sản.
Hệ thống BHH được xây dựng với mục đích chính là cung cấp nước tưới, tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp; nhưng trong quá trình phát triển đô thị hóa và công nghiệp hóa, hiện nay hệ thống sông BHH phải đảm nhận thêm chức năng tiếp nhận nước thải dân sinh, nước thải từ các đơn vị sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, các bệnh viện, làng nghề, cơ sở chăn nuôi, thậm chí cả rác thải… với lưu lượng ngày càng lớn.
Ở tỉnh Hưng Yên, tổng lượng nước thải phát sinh trên địa bàn đang xả thải vào môi trường khoảng 134.401 m3/ngày đêm, chủ yếu xả thải vào sông BHH và các sông nhánh; trong đó, nước thải của các khu, cụm công nghiệp và các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ chiếm 28%; nước thải của các cơ sở y tế chiếm 2%; nước thải của khu dân cư, các làng nghề, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nhỏ lẻ, cơ sở chăn nuôi chiếm 70%. Phần lớn lượng nước thải chưa qua xử lý hoặc có qua xử lý cũng chưa đạt tiêu chuẩn.
Ngoài ra, tại đầu nguồn sông BHH phải tiếp nhận lượng nước bị ô nhiễm có nguồn gốc từ nước thải công nghiệp, dịch vụ, làng nghề, dân sinh dọc lưu vực sông Cầu Bây chạy qua quận Long Biên và huyện Gia Lâm (Hà Nội) qua cống Xuân Thụy. Ðây cũng là nguyên nhân làm nguồn nước sông BHH ngày càng bị ô nhiễm trầm trọng. Nước sông Cầu Bây mầu đen, sủi bọt trắng thường xuyên xả vào sông BHH, với tần suất ngày một tăng lên; mỗi tuần từ hai đến ba lần, mỗi lần kéo dài một đến hai ngày.
Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Hưng Yên Trần Ðăng Anh cho biết, nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng nêu trên do hệ thống sông BHH phải tiếp nhận nhiều nguồn nước thải với lưu lượng ngày càng lớn, dẫn đến quá tải; nhất là nước thải chưa được xử lý hoặc đã xử lý nhưng chưa đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về môi trường. Hệ thống sông BHH thường xuyên đóng để trữ nước nên tình trạng nước ứ đọng, không lưu thông, chủ yếu vào mùa khô cũng góp phần gây ô nhiễm. Việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường chưa được nghiêm, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các tỉnh, thành phố trong việc quản lý, xử lý nguồn nước xả thải gây ô nhiễm…
Trước tình trạng này, tỉnh Hưng Yên đã đưa ra giải pháp ngăn chặn, giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường trên hệ thống sông BHH như quy định các khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung phải có hệ thống thu gom, xử lý nước thải đạt giá trị giới hạn quy định tại cột A (đạt chuẩn A) của quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường. Triển khai mô hình phân loại, xử lý rác thải sinh hoạt hữu cơ tại hộ gia đình. Lắp đặt hệ thống nhận dữ liệu quan trắc tự động, thiết bị giám sát lấy mẫu tự động nước thải sau xử lý của các đơn vị có lưu lượng nước thải, khí thải lớn, tăng cường thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định bảo vệ môi trường, xử lý các hành vi gây ô nhiễm môi trường.
Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện các giải pháp bảo vệ môi trường hiệu quả chưa cao; nhất là việc ngăn chặn nguồn nước ô nhiễm từ sông Cầu Bây chảy vào hệ thống sông BHH. Do vậy, để giải quyết khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường nước sông BHH cần có sự vào cuộc và phối hợp của các bộ, ngành, địa phương cải tạo, nâng cấp toàn hệ thống sông BHH, bảo đảm sông BHH ngoài chức năng tưới, tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp hiện nay có thêm chức năng tiêu thoát nước thải cho công nghiệp, dân sinh trong tình hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của khu vực phát triển nhanh.
Xây dựng mạng lưới quan trắc tự động đánh giá chất lượng nước tưới tiêu trên hệ thống sông BHH gửi kết quả cho các tỉnh, thành phố có hệ thống sông BHH để cảnh báo người dân, các tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quan có biện pháp giảm thiểu ảnh hưởng.
Kiểm tra, đánh giá và xác định nguyên nhân làm nước sông Cầu Bây bị ô nhiễm; tăng cường thanh tra, kiểm tra theo thẩm quyền việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nhất là các cơ sở có phát sinh nước thải lớn xả thải vào hệ thống sông Cầu Bây. Sớm đầu tư, xây dựng đưa vào vận hành những công trình xử lý nước thải đô thị trên địa bàn quận Long Biên theo kế hoạch của UBND thành phố Hà Nội về việc phát triển hệ thống thu gom và xử lý nước thải đô thị TP Hà Nội giai đoạn đến năm 2020.
Các cơ quan quản lý thường xuyên trao đổi, chia sẻ thông tin về thực trạng các nguồn xả nước thải vào sông và chất lượng nước sông, các biện pháp đã và đang thực hiện nhằm khắc phục tình trạng nước sông bị ô nhiễm…
"Hệ thống sông Bắc Hưng Hải trên địa bàn tỉnh Hưng Yên có chín dòng sông, kênh (chiếm 25% tổng số sông, kênh điều tra, khảo sát trên địa bàn tỉnh Hưng Yên) bị ô nhiễm rất nghiêm trọng; 12 dòng sông, kênh ô nhiễm nghiêm trọng; 15 dòng sông, kênh ô nhiễm trung bình. Năm 2015 và 2016, khi lấy 165 mẫu nước mặt, phân tích 19 chỉ tiêu về môi trường, kết quả cho thấy 100% mẫu nước mặt có chỉ tiêu phân tích vượt quy chuẩn kỹ thuật; trong đó, có nhiều chỉ tiêu vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường từ vài lần đến hàng chục lần...".
(Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Hưng Yên)
"Nguồn nước sông Bắc Hưng Hải bị ô nhiễm nghiêm trọng không chỉ ảnh hưởng đến sản xuất mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người dân. Chúng tôi cho rằng, nguyên nhân chính là do một số nhà máy trên địa bàn xả thải. Ðề nghị các cơ quan chức năng xử lý nghiêm các doanh nghiệp cố tình vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường...".
VŨ THỊ TÌNH
(Xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên)
- PHẠM HÀ-
Trong 1 ngày, 13.000 m2 đất rừng thành đất ở cho Giám đốc Sở tài nguyên Yên Bái
(GDVN) - Chỉ trong 1 ngày, 06 quyết định có số liên tiếp nhau được cấp dưới ký để chuyển hàng ngàn mét vuông đất rừng sang đất ở cho nhà ông Giám đốc Sở Tài nguyên.
Ngày 20/7/2015, ông Nguyễn Yên Hiền, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Yên Bái đã “vung bút” ký liên tiếp 06 quyết định chuyển đổi hơn 13 ngàn mét vuông đất rừng sản xuất, đất trồng cây lâu năm, đất nuôi trồng thủy sản sang… "đất ở" cho gia đình ông Phạm Sỹ Quý, Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Yên Bái.
Đó là các Quyết định số 2356, 2357, 2358, 2359, 2360 và 2361, tổng diện tích của 06 quyết định “siêu tốc” này là 13 ngàn 272 mét vuông đất rừng, đất trồng cây lâu năm, đất thủy sản "biến" thành đất ở.
Đến ngày 02/6/2016, lại chính ông Nguyễn Yên Hiền ký tiếp Quyết định số 1639/QĐ-UBND để chuyển đổi 308 mét vuông cho gia đình ông Quý.
Tháng 9/2016, ông Phạm Sỹ Quý được bổ nhiệm làm Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Yên Bái. Ảnh Báo Tài nguyên Môi trường.
Như vậy, sau 07 quyết định của Ủy ban thành phố Yên Bái (trong đó 06 quyết định ký 01 ngày), gia đình ông Giám đốc Sở Tài nguyên đã có khu “đất ở” với tổng diện tích 13.577m2, và hợp thành một khu đất rộng bao la ở tổ 42, phường Minh Tân, thành phố Yên Bái.
Người đứng tên quyết định là vợ ông Quý - bà Hoàng Thị Huệ, sinh năm 1975, thường trú tại tổ 51, phường Minh Tân, thành phố Yên Bái.
Căn cứ mà ông Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Yên Bái “vung bút” là Quyết định số 666/QĐ-UBND ngày 12/5/2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái "về việc xét duyệt điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2011 – 2015) của thành phố Yên Bái".
Theo chức năng, nhiệm vụ thì chính Sở Tài nguyên Môi trường, nơi ông Quý đang làm Giám đốc là đơn vị chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan lập, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của địa phương trình Ủy ban nhân dân tỉnh để ban hành Quyết định số 666/QĐ-UBND ngày 12/5/2014.
Khu đất của gia đình ông Quý, với những công trình mà nhiều dân địa phương phải trầm trồ, khen ngợi. Ảnh Hải Ninh
Quyết định số 666/QĐ-UBND ngày 12/5/2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái phần “Cơ quan, chủ đầu tư” lại chỉ ghi tên “người dân”, chứ không hề ghi là gia đình Giám đốc Sở Tài nguyên;
Phần “Quy mô diện tích dự kiến thực hiện” ghi là 2,98 héc ta, trong đó đất trồng lúa là 03 héc ta, đất khác là 2,68 héc ta… Quyết định cũng ghi rõ, thời gian thực hiện và hoàn thành là năm 2016.
Như vậy, gia đình ông Quý đã đi trước “người dân” 1 bước, khi tháng 7/2015 đã hoàn thành việc chuyển đổi mục đích và trong số 2,68 héc ta "đất khác" mà tỉnh quy hoạch cho phép người dân chuyển đổi thì gia đình ông Giám đốc Sở đã “ôm trọn” hơn 1,3 héc ta (chiếm gần 50%) diện tích.
Người đề xuất ký các quyết định trên chính là Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố Yên Bái – đây là cấp dưới (theo ngành dọc) của ông Quý.
Trao đổi với phóng viên Báo điện tử Giáo dục Việt Nam ngày 07/6/2017, lúc đầu, ông Phạm Sỹ Quý không thừa nhận đây là khu đất của gia đình ông.
Ông Quý cho rằng: “Đấy không phải nhà tôi. Tôi làm gì có nhiều đất như vậy…”.
Khi phóng viên đặt câu hỏi: “Thế người đứng tên là bà Hoàng Thị Huệ, sinh năm 1975, ở tổ 51 phường Minh Tân không phải là vợ ông?”.
Lúc này ông Quý lại biện bạch: “Huệ đúng là vợ tôi, nhưng đất không phải của tôi…”.
Lòng vòng mãi tới khi phóng viên trưng ra bằng chứng “không thể chối cãi” thì ông Giám đốc Sở Tài nguyên mới thừa nhận đây chính là khu đất gia đình ông và bản thân ông đang phải làm “giải trình” cho lãnh đạo tỉnh.
Cùng ngày, trao đổi với phóng viên Báo điện tử Giáo dục Việt Nam, ông Nguyễn Văn Khánh, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái xác nhận đây là khu đất gia đình ông Phạm Sỹ Quý, Giám đốc Sở Tài nguyên Môi trường.
“Tôi đã nắm được sự việc này và tỉnh cũng đang yêu cầu Ủy ban nhân dân thành phố Yên Bái và Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh làm rõ quy trình, thủ tục chuyển đổi. Tỉnh cũng đang yêu cầu ông Quý báo cáo giải trình…”, ông Khánh cho biết.
Phóng viên Báo điện tử Giáo dục Việt Nam cũng liên hệ làm việc với ông Đỗ Đức Duy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái. Mặc dù nắm được nội dung mà báo chí đang xác minh, làm rõ liên quan đến khu đất gia đình ông Giám đốc Sở Tài nguyên nhưng ông Duy từ chối phát ngôn và hướng dẫn phóng viên làm việc với Chánh Văn phòng tỉnh.
Vụ việc ông Phạm Sỹ Quý, Giám đốc Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Yên Bái “thâu tóm” hơn 13 ngàn mét vuông đất rừng, đất thủy sản rồi chuyển đổi sang đất ở để xây các công trình quy mô đồ sộ là điều khó có thể chấp nhận được? Ai đang đứng ra che chắn, để cho các cơ quan chức năng và các cá nhân làm như vậy?
Vào ngày 09/9/2016, ông Phạm Sỹ Quý (sinh năm 1971) được bà Phạm Thị Thanh Trà, lúc này là Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái (hiện bà Trà là Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái) ký quyết định bổ nhiệm làm Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường. Trả lời trên báo chí, bà Phạm Thị Thanh Trà khẳng định, việc bà ký bổ nhiệm ông Quý là thừa hành theo luật định ở vị trí mà bà đang đương nhiệm chứ không phải là quyết định cá nhân. "Quy trình bổ nhiệm là cực kỳ chặt chẽ, không có gì để gọi là ưu ái trong trường hợp này", bà Trà khẳng định.
- Hải Ninh-
Formosa vết chém thấu tim dân tộc Việt
Thảm họa quốc gia về ô nhiễm môi trường đã hiển hiện qua sự kiện cá chết hàng loạt ở các tỉnh ven biển miền Trung. Giới khoa học cho rằng đây là hậu quả của nhiều thập niên phát triển kinh tế bằng mọi giá và xem nhẹ việc hủy hoại môi trường.
Che chắn và trấn áp tiếng dân
Trong khi những xí nghiệp lỗi thời ô nhiễm cao như khoáng sản, luyện kim, điện than, hóa chất, bị kiểm soát chặt chẽ và tẩy chay khắp thế giới, Việt Nam lại hoan hỉ chào đón họ, cho họ chốn vạn đại dung thân 50 đến 70 năm. Khi tai họa đổ ra, dân chúng tố cáo các vi phạm của họ, chính quyền lại che chắn cho họ và trấn áp tiếng dân. Chính sách phát triển hiện nay là đầu tư và đầu tư bất chấp tác động nặng nề và lâu dài trên môi sinh con cháu phải gánh chịu.
Nhà máy luyện thép Hưng Nhiệp của công ty Formosa là một dự án đại quy mô trên thế giới, với công suất khởi đầu 7,5 triệu tấn/năm và số vốn 15 tỉ USD, tự nó xếp hàng thứ 18 nếu so sánh về khả năng sản xuất thép của các quốc gia trtên thế giớị. Khi xây dựng họ đã xả nước thải ô nhiễm ra biển Hà Tĩnh gây ra thảm trạng cá chết trải rộng 200 km duyên hải Trung Việt một năm trước đây. Công Ty Formosa đã nhận lỗi và thoả thuận với chính quyền Việt Nam bồi thường 500 triệu USD dù giới chuyên gia thẩm định thiệt hại có thể cao hơn cả trăm lần.
Cho đến nay, môi sinh biển vẫn chưa hồi phục, hải sản chưa an toàn và đơn tố cáo và khiếu nại của dân không được xét xử. Chính quyền gần đây đã nhìn nhận phải 50 năm hay lâu hơn biển mới hy vọng được phục hồi và đã kiểm tra Formosa buộc họ khắc phục mọi lỗi lầm trước khi cho hoạt động. Vừa qua chính quyền tuyên bố Formosa đã khắc phục 52 trong 53 vi phạm, dù chưa hoàn chỉnh vẫn cho phép Formosa đi vào hoạt động.
Lỗi thứ 53 là Formosa là một vi phạm cố ý có tính hình sự, vì đã âm thầm tráo đổi kỹ thuật của lò dập cốc (có mục đích dập lửa và làm nguội) thay vì dùng khí trơ khô lại đổi thành nước ướt để tăng lợi nhuận. Đó là một hành vi gian lận mờ ám vì ô nhiễm từ kỹ thuật ướt xả ra cao hơn kỹ thuật khô hai đến ba lần và sản lượng thép làm ra được lại kém đi mất 20%. Ô nhiễm giúp Formosa tăng lợi nhuận nhưng dân cư phải trả giá bằng sức khoẻ, giảm tuổi thọ và sống trong môi sinh suy thoái không thể vãn hồi.
Không ý thức trách nhiệm
Hiện trường nơi xảy ra vụ nổ ở lò cao số 1 của Công ty Formosa. Courtesy NLĐ
Sau thảm trạng môi sinh biển năm ngoái, dân cư mong đợi chính quyền và Formosa rà soát lại toàn bộ quy trình và thiết kế nhà máy để bảo đảm không cho ô nhiễm nhà máy khuếch tán ra ngoài mất kiểm soát trong mọi tình huống. Nhưng cả Formosa và chính quyền đã không có khả năng, trình độ chuyên môn và ý thức trách nhiệm để tiên liệu và đối phó với nhà máy đầy ô nhiễm bất kham này. Chỉ một ngày sau khi long trọng cho nhà máy bắt đầu hoạt động đã xảy ra một vụ cháy và tiếng nổ vang xa ba km vẫn còn nghe thấy.
Việc không dừng ở đó, vì chính quyền điều tra và kết luận rằng thiết bị lọc bụi tại lò vôi bị vỡ gây ra, và nổ lò vôi là bình thường. Giải thích này hoàn toàn phi cơ sở khoa học và mang dấp dáng một màn the che chắn thiếu trình độ.
Hình trên cho là nơi gây nổ cháy nhưng không có một chút vết tích khói bụi cháy bám vào. Vôi không phải là chất cháy được, bụi vôi không có trong danh sách bụi có khả năng cháy. Hình ảnh bụi khói bốc lên nghi ngút trong ánh lửa bao cả nhà máy là chứng cớ phản ứng cháy của nhiên liệu có nhiệt lượng cao. Như thế, lò vôi không chỉ chứa vôi phải chứa nhiên liệu; nhiên liệu trộn vào có thể chỉ vì tắc trách của nhân công, hay do hệ thống lọc bụi vôi hút cả bụi than nơi khác trộn lẫn vào, do thiết kế hay nhà thầu thực hiện sai lầm.
Giả thuyết nổ cháy do vôi là phản khoa học phải bác bỏ, giả thuyết do bụi than có khả năng tin cậy cao nhất vì quy trình lò luyện cốc cần cả vôi và than tại nhà máy. Thực vậy, than đá là chất dễ bắt cháy, bụi than nhỏ sẽ có nhiều diện tích mặt tiếp xúc với oxy nên bụi than có nguy cơ nổ cháy rất cao. Nếu bụi than bị hút chung vào hệ thống lọc bụi vôi khi nồng độ than đủ 60g/m3 và chạm phải nguồn lửa (Ignition sources) chạm mặt có nhiệt độ ở 540 C là đủ điều kiện để nổ.
Giả thuyết tin cậy thứ hai là khi hệ thống cung cấp điện trong nhà máy không được thiết kế bằng những thiết bị an toàn chế tạo chỉ để dùng trong khu vực có nguy cơ nổ cháy (classified electrical devices), những nơi có bụi than hay khí đốt cháy (flammable gas) nếu dùng thiết bị điện loại thường sẽ "spark" phát lửa và gây ra cháy nổ.
Những vấn đề môi sinh từ Formosa có thể khắc phục không? Không vì vài lý do sau:
1.Không thể khắc phục vì đầu tư vào dự án này không còn hiệu quả kinh tế. Hiện nay thị trường thép thế giới chỉ tiêu thụ được nửa công suất các nhà máy thép đang hoạt động. Không chủ đầu tư nào lại bỏ thêm hàng trăm triệu vốn bảo vệ môi sinh để phải gánh lỗ hơn lên.
2.Không thể khắc phục vì trình độ văn hoá chuyên môn và kinh nghiệm của Formosa và chính quyền không đủ khả năng để tiên liệu và giải quyết tận gốc các sự cố kỹ thuật phức tạp.
3.Không thể khắc phục vì hệ thống tư pháp không độc lập nên không áp chế được chính quyền và xí nghiệp. Chính vì thế thương lượng với chính quyền là đáp án nhanh chóng, dễ dàng và ít tốn kém nhất cho xí nghiệp như món tiền 500 triệu năm ngoái.
4.Không thể khắc phục khi Việt Nam vẫn tin vào 16 chữ vàng.
Khách không bỏ rác nhà mình nếu mình không mời họ mang vào, cả nước đều biết rõ nếu khắc phục được bốn nguyên nhân trên, đất nước sẽ được trở về lộ trình bền vững, chính quyền sẽ được lòng 90 triệu dân và đầu tư bền sạch sẽ đổ vào.
- Phạm Phan Long- RFA
Sơn Trà không chỉ "lá phổi"mà còn là "dạ dày",thưa Phó Thủ Tướng
Green Trees nhận định đây là một bài viết quá thâm thúy:
Sơn Trà không chỉ là “lá phổi xanh” mà còn phải là “cái dạ dày” để nuôi cơ thể. Hủy hoại Sơn Trà là một tội ác nhưng không đánh thức Sơn Trà thì phải chăng, cũng là tội lỗi?
Những ngày qua, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã vào Sơn Trà (Đà Nẵng) để trực tiếp nắm bắt tình hình, tìm giải pháp khả thi nhất cho bán đảo này. Việc làm của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam được dư luận hoan nghênh bởi nó xóa đi cái cung cách bàn giấy, duyệt dự án qua hồ sơ trong phòng máy lạnh.
Đặc biệt sau chuyến đi thị sát, Phó Thủ tướng đã yêu cầu tạm dừng mọi hoạt động trên tất cả các dự án trong 3 tháng đã thể hiện sự cẩn trọng trước khi quyết định một vấn đề hệ trọng, không chỉ liên quan đến bán đảo Sơn Trà, TP Đà Nẵng mà còn là sự quan tâm của cả nước.
Với tư cách một nhà báo, xin gửi tới Phó Thủ tướng mấy suy nghĩ của cá nhân tôi.
Trước khi bày tỏ quan điểm, xin kể lại 4 sự việc mà người viết bài này đã trực tiếp tham gia, tất nhiên cũng với tư cách nhà báo.
Việc thứ nhất là cách đây gần 20 năm, khi triển khai dự án cáp treo Yên Tử, các nhà đầu tư và chính quyền Quảng Ninh đã gặp phải rất nhiều ý kiến phản đối với đủ các lý do, nào là phá vỡ cảnh quan, hủy hoại di tích, động chạm cõi tâm linh. Song, câu hỏi đặt ra là không làm cáp treo thì làm gì để bảo vệ Đường Tùng và giải quyết nhu cầu chính đáng của hàng vạn phật tử, khách du lịch mỗi ngày, hàng trăm vạn du khách mỗi năm ngoài phương án xây dựng cáp treo? Giờ đây thì hiệu quả của tuyến cáp treo này như thế nào, chắc ai cũng biết. Đường Tùng đã “thoát chết” trong gang tấc, được bảo vệ.
Việc thứ hai, cùng thời điểm trên, có một dự án (hình như của Na Uy hay Đan Mạch) viện trợ để thay nước Hồ Tây “uống được”. Dự án này cũng vấp phải sự phản đối gay gắt, có Đại biểu Quốc hội còn cho rằng thay nước Hồ Tây “uống được” là vô nhân đạo vì “nước sinh hoạt còn thiếu” và cuối cùng thì Hồ Tây đến nay cơ bản đã “tử vong”, nước sinh hoạt thiếu vẫn thiếu.
Việc thứ ba là dự án thay nước hồ Gươm cũng không thực hiện được và giờ đây, Hồ Gươm thế nào chắc ai cũng biết. Số phận của Cụ Rùa truyền thuyết cuối cùng cũng “đã bỏ ta đi”.
Việc thứ tư, cách đây máy tháng, tôi có lên Fansipan, nóc nhà của Tổ quốc đã tận mắt chứng kiến sự hân hoan, kiêu hãnh và niềm hạnh phúc hiện lên trên gương mặt tất cả mọi người, nhất là các cụ già và em thơ. Một nhà thơ bạn vong niên của tôi ở tận miền cực Nam khi đứng dưới lá cờ ở nóc nhà Tổ quốc, gọi điện cho tôi đã bật khóc.
Tất nhiên, như hầu hết các dự án, khi triển khai, những nhà đầu tư đều vấp phải sự phản ứng quyết liệt và phải nhờ sự kiên quyết, công trình mới được thực hiện.
Từ những câu chuyện trên cho thấy vẫn là sự gian nan của bài toán muôn thủa: Bảo tồn – phát triển và ngược lại của ngành du lịch.
Trở lại với Sơn Trà, cá nhân tôi cho rằng cũng không ngoài “qui luật” này. Vấn đề ở đây là phải xử lý hài hòa giữa ba mối quan hệ: An ninh quốc phòng, môi trường và phát triển kinh tế.
Chúng ta không đổi an ninh quốc phòng hay môi trường lấy kinh tế nhưng cũng không coi nhẹ sự phát triển kinh tế bởi theo suy nghĩ của người viết bài này, với những gì đã và đang có, Đà Nẵng khó có con đường nào để lựa chọn ngoài du lịch và phát triển công nghệ cao. Trong khi thực trạng, phát triển công nghệ chưa hiệu quả.
Vì thế, việc khai thác Sơn Trà đối với Đà Nẵng là nhu cầu cần thiết để phát triển du lịch nhằm nâng cao đời sống cho người dân thành phố cũng như góp phần vào ngân sách quốc gia.
Sơn Trà có là kho vàng thì cũng phải khai thác, đưa vào sử dụng bởi nếu chôn dưới đất thì vàng khác gì đất dá. Có là “tiên nữ” thì cũng nên “đánh thức” để tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước chứ không thể để “người đẹp ngủ trong rừng”. Sơn Trà không chỉ là “lá phổi xanh” mà còn phải là “cái dạ dày” để nuôi cơ thể.
Tôi hi vọng rằng sau 3 tháng, Phó Thủ tướng sẽ cùng với các chuyên gia, nhà khoa học, nhà kinh tế tìm ra giải pháp tối ưu nhất để phát triển Sơn Trà một cách hài hòa, bền vững, hiệu quả.
Hủy hoại Sơn Trà là một tội ác nhưng không đánh thức Sơn Trà thì phải chăng, cũng là tội lỗi?
- Bùi Hoàng Tám -
Sơn Trà không chỉ là “lá phổi xanh” mà còn phải là “cái dạ dày” để nuôi cơ thể. Hủy hoại Sơn Trà là một tội ác nhưng không đánh thức Sơn Trà thì phải chăng, cũng là tội lỗi?
Những ngày qua, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã vào Sơn Trà (Đà Nẵng) để trực tiếp nắm bắt tình hình, tìm giải pháp khả thi nhất cho bán đảo này. Việc làm của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam được dư luận hoan nghênh bởi nó xóa đi cái cung cách bàn giấy, duyệt dự án qua hồ sơ trong phòng máy lạnh.
Đặc biệt sau chuyến đi thị sát, Phó Thủ tướng đã yêu cầu tạm dừng mọi hoạt động trên tất cả các dự án trong 3 tháng đã thể hiện sự cẩn trọng trước khi quyết định một vấn đề hệ trọng, không chỉ liên quan đến bán đảo Sơn Trà, TP Đà Nẵng mà còn là sự quan tâm của cả nước.
Với tư cách một nhà báo, xin gửi tới Phó Thủ tướng mấy suy nghĩ của cá nhân tôi.
Trước khi bày tỏ quan điểm, xin kể lại 4 sự việc mà người viết bài này đã trực tiếp tham gia, tất nhiên cũng với tư cách nhà báo.
Việc thứ nhất là cách đây gần 20 năm, khi triển khai dự án cáp treo Yên Tử, các nhà đầu tư và chính quyền Quảng Ninh đã gặp phải rất nhiều ý kiến phản đối với đủ các lý do, nào là phá vỡ cảnh quan, hủy hoại di tích, động chạm cõi tâm linh. Song, câu hỏi đặt ra là không làm cáp treo thì làm gì để bảo vệ Đường Tùng và giải quyết nhu cầu chính đáng của hàng vạn phật tử, khách du lịch mỗi ngày, hàng trăm vạn du khách mỗi năm ngoài phương án xây dựng cáp treo? Giờ đây thì hiệu quả của tuyến cáp treo này như thế nào, chắc ai cũng biết. Đường Tùng đã “thoát chết” trong gang tấc, được bảo vệ.
Việc thứ hai, cùng thời điểm trên, có một dự án (hình như của Na Uy hay Đan Mạch) viện trợ để thay nước Hồ Tây “uống được”. Dự án này cũng vấp phải sự phản đối gay gắt, có Đại biểu Quốc hội còn cho rằng thay nước Hồ Tây “uống được” là vô nhân đạo vì “nước sinh hoạt còn thiếu” và cuối cùng thì Hồ Tây đến nay cơ bản đã “tử vong”, nước sinh hoạt thiếu vẫn thiếu.
Việc thứ ba là dự án thay nước hồ Gươm cũng không thực hiện được và giờ đây, Hồ Gươm thế nào chắc ai cũng biết. Số phận của Cụ Rùa truyền thuyết cuối cùng cũng “đã bỏ ta đi”.
Việc thứ tư, cách đây máy tháng, tôi có lên Fansipan, nóc nhà của Tổ quốc đã tận mắt chứng kiến sự hân hoan, kiêu hãnh và niềm hạnh phúc hiện lên trên gương mặt tất cả mọi người, nhất là các cụ già và em thơ. Một nhà thơ bạn vong niên của tôi ở tận miền cực Nam khi đứng dưới lá cờ ở nóc nhà Tổ quốc, gọi điện cho tôi đã bật khóc.
Tất nhiên, như hầu hết các dự án, khi triển khai, những nhà đầu tư đều vấp phải sự phản ứng quyết liệt và phải nhờ sự kiên quyết, công trình mới được thực hiện.
Từ những câu chuyện trên cho thấy vẫn là sự gian nan của bài toán muôn thủa: Bảo tồn – phát triển và ngược lại của ngành du lịch.
Trở lại với Sơn Trà, cá nhân tôi cho rằng cũng không ngoài “qui luật” này. Vấn đề ở đây là phải xử lý hài hòa giữa ba mối quan hệ: An ninh quốc phòng, môi trường và phát triển kinh tế.
Chúng ta không đổi an ninh quốc phòng hay môi trường lấy kinh tế nhưng cũng không coi nhẹ sự phát triển kinh tế bởi theo suy nghĩ của người viết bài này, với những gì đã và đang có, Đà Nẵng khó có con đường nào để lựa chọn ngoài du lịch và phát triển công nghệ cao. Trong khi thực trạng, phát triển công nghệ chưa hiệu quả.
Vì thế, việc khai thác Sơn Trà đối với Đà Nẵng là nhu cầu cần thiết để phát triển du lịch nhằm nâng cao đời sống cho người dân thành phố cũng như góp phần vào ngân sách quốc gia.
Sơn Trà có là kho vàng thì cũng phải khai thác, đưa vào sử dụng bởi nếu chôn dưới đất thì vàng khác gì đất dá. Có là “tiên nữ” thì cũng nên “đánh thức” để tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước chứ không thể để “người đẹp ngủ trong rừng”. Sơn Trà không chỉ là “lá phổi xanh” mà còn phải là “cái dạ dày” để nuôi cơ thể.
Tôi hi vọng rằng sau 3 tháng, Phó Thủ tướng sẽ cùng với các chuyên gia, nhà khoa học, nhà kinh tế tìm ra giải pháp tối ưu nhất để phát triển Sơn Trà một cách hài hòa, bền vững, hiệu quả.
Hủy hoại Sơn Trà là một tội ác nhưng không đánh thức Sơn Trà thì phải chăng, cũng là tội lỗi?
- Bùi Hoàng Tám -
Hà Nội chịu tác động khí thải của 20 nhà máy nhiệt điện than
Tại buổi hội thảo về ô nhiễm không khí được tổ chức vào tối 5-6, hầu hết các chuyên gia đều cho rằng, ô nhiễm không khí tại Thủ đô Hà Nội đã ở mức báo động. Bên cạnh nhiều nguồn khí thải Thủ đô còn phải chịu tác động tiêu cực của khoảng 20 nhà máy nhiệt điện than ở phía Bắc.
Bà Nguyễn Thị Khanh – Giám đốc Trung tâm sáng tạo xanh (GreenID) cho biết, ô nhiễm không khí ở Hà Nội ngày càng gia tăng, đặc biệt vào giờ cao điểm. Chỉ trong năm 2016, Hà Nội đã có 8 đợt ô nhiễm không khí nghiêm trọng.
Các chỉ số bụi PM10 và PM2,5 đều vượt ngưỡng trung bình năm. Tại trạm quan trắc không khí đặt tại Đại sứ quán Mỹ (Láng Hạ - Hà Nội), chỉ số chất lượng không khí (AQI) và chỉ số bụi PM2,5 đều ở mức rất cao. Trong quý 1-2017, chỉ số bụi PM2,5 là 54,6 µg/m3, số ngày vượt quá quy chuẩn Việt Nam là 37 ngày (nếu so với WHO là 78 ngày).
Lí giải về nguồn gây ô nhiễm, GS Nghiêm Trung Dũng (Đại học Quốc gia Hà Nội) cho rằng, với một đô thị lớn như Hà Nội, khí thải từ giao thông phải được chú trọng hàng đầu, bên cạnh các yếu tố khác như hoạt động sản xuất công nghiệp, xây dựng, đốt rơm rạ...
Cùng với quá trình đô thị hoá, lượng phương tiện cá nhân tăng lên rất nhanh, tạo ra lượng lớn khí thải. Điều này lí giải vì sao trong giờ cao điểm, nồng độ ô nhiễm lại tăng cao đột biến. Hiện Hà Nội có gần 6 triệu xe máy, trong đó 2,5 triệu xe đã hết hạn sử dụng từ năm 2000. Những chiếc xe máy này hàng ngày vẫn xả khí thải ra môi trường gây ô nhiễm nghiêm trọng.
Mức độ ô nhiễm không khí ở Hà Nội cao gấp đôi TP Hồ Chí Minh
Bên cạnh các nguồn gây ô nhiễm nội tại, GS Dũng cũng lưu ý tới các nguồn xa, di chuyển về Hà Nội theo hướng gió. “Vào mùa đông, theo gió mùa đông bắc, bụi từ phía Bắc có thể di chuyển xuống Thủ đô làm gia tăng nồng độ ô nhiễm. Chưa kể, ở phía Bắc có tới gần 20 nhà máy nhiệt điện than đang hoạt động. Phần lớn các nhà máy này mới chỉ có thiết bị xử lí bụi, một số có khả năng xử lí SO2, chưa có nhà máy nào có thiết bị xử lí NOx" – GS Dũng nói thêm.
Đồng quan điểm, bà Khanh cho rằng, các nhà máy nhiệt điện than cũng góp phần làm gia tăng ô nhiễm không khí ở Hà Nội. Mặc dù quy mô dân số, số lượng phương tiện giao thông của Thủ đô ít hơn TP Hồ Chí Minh nhưng ô nhiễm không khí tại đây lại cao gấp đôi.
"Dù các nhà máy nhiệt điện cách xa Hà Nội xong bụi mịn PM2,5 có khả năng phát tán rất xa. Theo World Bank, 60% nguồn gây ô nhiễm của New Delhi (Ấn Độ) đến từ bên ngoài. Hà Nội cũng không ngoại lệ. Chúng ta cần hành động khẩn cấp để giảm phát thải từ nhiệt điện than, hướng tới sử dụng năng lượng tái tạo" – bà Khanh nói.
- Báo Xây Dựng -
Cháy 15ha rừng Tam Đảo tại địa điểm nhạy cảm
Khu vực xảy ra cháy rừng chính là địa điểm từng nằm trong quy hoạch xây dựng công viên nghĩa trang của Vĩnh Phúc đang gây xôn xao dư luận.
Vào khoảng 9h ngày 3/6, một vụ cháy rừng đã xảy ra tại khu vực núi Ngang, thôn trại Mái, xã Bồ Lý, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc.
Ngọn lửa lớn lại bùng phát trong điều kiện nắng nóng khiến công tác chữa cháy gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Ngọn lửa nhanh chóng lan ra trên diện rộng và đã làm cho 15 ha rừng với cây trồng chủ yếu là bạch đàn nơi đây bị thiêu rụi.
Ngay khi phát hiện đám cháy, huyện Tam Đảo cùng các lực lượng chức năng trong tỉnh đã nhanh chóng huy động lực lượng chữa cháy ở cơ sở và nhân dân trên địa bàn, các chiến sỹ của các đơn vị Z195, C20, Trường Tăng thiết giáp, Lữ đoàn 204 tổ chức chữa cháy.
Do địa bàn đồi dốc, nắng nóng, ngọn lửa lan rộng, công tác chữa cháy gặp nhiều khó khăn. Đến 16h cùng ngày, vụ cháy mới cơ bản được dập tắt.
Ông Nguyễn Văn Trì, Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc có mặt tại khu vực rừng cháy và chỉ đạo công tác chữa cháy rừng đã đánh giá cao việc xử lý nhanh, kịp thời của huyện Tam Đảo, các lực lượng chức năng, các cơ quan, đơn vị quân đội đóng trên địa bàn.
Về nghi vấn nhiều người đặt ra phải chăng có người cố tình đốt rừng phòng hộ, Nguyễn Văn Trì, Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc trả lời báo chí khẳng định: "Nghi vấn thì ai cũng có quyền, nhưng đúng hay không thì chưa thể khẳng định được bởi phải đợi cơ quan chức năng điều tra làm rõ".
Ông Trì cũng cho hay, "chỉ là đám cháy cây tạp", ông đã yêu cầu huyện Tam Đảo phối hợp với các lực lượng xử lý triệt để vụ cháy, đồng thời cảnh giác với nguy cơ phát cháy trở lại.
Trùng hợp lạ
Như báo Đất Việt đã thông tin trước đó, khu vực núi Ngang, thôn Trại Mái, xã Bồ Lý, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc chính là địa điểm nằm trong quy hoạch xây dựng công viên nghĩa trang.
Dự án do Công ty CP Đầu tư Bình Minh Xanh làm chủ đầu tư trên diện tích 105,5 ha, lấn chiếm sang cả khu vực rừng phòng hộ mà Nhà nước đã giao các hộ gia đình, cá nhân nhận trồng, chăm sóc và bảo vệ từ năm 2002.
Mặc dù còn nhiều ý kiến bày tỏ sự không đồng tình với dự án này, thế nhưng mới đây, trong văn bản gửi Thủ tướng Chính phủ, ông Vũ Chí Giang - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc cho rằng:
Việc xây dựng công viên nghĩa trang tại khu vực núi Ngang là phù hợp với phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ về quy hoạch chung xây dựng đô thị Vĩnh Phúc đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Trong quy hoạch này, Vĩnh Phúc có 2 nghĩa trang được quy hoạch tại xã Bồ Lý, huyện Tam Đảo và xã Trung Mỹ, huyện Bình Xuyên với quy mô mỗi khu khoảng hơn 100 ha.
Trong khi trước đó, UBND tỉnh Vĩnh Phúc đã đề nghị Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc cho dừng chủ trương nghiên cứu triển khai quy hoạch xây dựng hai khu nghĩa trang tập trung theo Quy hoạch chung xây dựng đô thị Vĩnh Phúc.
Giải thích về việc này, UBND tỉnh Vĩnh Phúc cho biết, sở dĩ tỉnh này làm như vậy là để lường trước những suy diễn, bình luận phức tạp qua báo chí và để chuẩn bị tốt các điều kiện cần thiết cho việc nghiên cứu các khu vực nghĩa trang tập trung của tỉnh.
Người dân không đồng thuận với chủ trương làm nghĩa trang tại Tam Đảo
Đối chiếu với quy định của Bộ NN&PTNT, tỉnh Vĩnh Phúc nhận thấy khu vực này không đủ điều kiện, tiêu chí để quy định là rừng phòng hộ.
Trong khi đó, trao đổi với Đất Việt ngày 19/5 về vấn đề này, GS.TSKH Nguyễn Ngọc Lung, Viện Quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng cho biết, ông cảm thấy rất bất bình khi nghe lãnh đạo Vĩnh Phúc cho rằng, đối chiếu với quy định của Bộ NN&PTNT, nhận thấy khu vực làm nghĩa trang không đủ điều kiện, tiêu chí để quy định là rừng phòng hộ.
Chính vì thế hiện nay tỉnh Vĩnh Phúc đang làm các thủ tục để điều chỉnh quy hoạch khu vực này ra khỏi diện tích rừng phòng hộ để phục vụ cho việc phát triển kinh tế-xã hội chung của địa phương.
"Tôi là người trước đây phụ trách quản lý toàn bộ việc này, tôi cũng có khuyết điểm khi phê duyệt cho các tỉnh mà không có cán bộ đi thẩm tra tận nơi, khoanh vùng rừng phòng hộ là khoanh trên bản đồ địa hình.
Tỉnh Vĩnh Phúc khẳng định như vậy thì chứng minh đi, chứng minh bằng các con số thẩm tra cụ thể.
Ở đây thấy rõ, khi được xác nhận là rừng phòng hộ thì tỉnh bằng lòng nhưng khi muốn làm dự án thì tìm lý lẽ chuyển nó ra khỏi vùng này, đó là các lý do không chính đáng'', TSKH Nguyễn Ngọc Lung nhận định.
Nếu Vĩnh Phúc cứ ngang nhiên làm, thay đổi quy hoạch theo dự án, theo ông Lung, cứ căn cứ theo Luật bảo vệ phát triển rừng mà làm, nếu lấy trên 50ha rừng trở lên là phải hỏi ý kiến Quốc hội, đừng dùng áp lực chính quyền xử lý.
- Tuổi Trẻ -
Đọc nhiều nhất
-
200 câu hỏi và trả lời về môi trường
Mời mọi người tham khảo đáp án của 200 câu hỏi về môi trường theo đường link sau: https://drive.google.com/file/d/0B1KcEgJqwSp9bnBaemw0e... -
Lợi ích của năng lượng gió với con người và môi trường
Năng lượng gió mang lại rất nhiều lợi ích không chỉ cho các khách hàng mà còn cho cả xã hội. Một vài lợi ích có thể nhìn thấy rõ ràng như... -
245 Người dân Hà Nội gửi kiến nghị phản đối dự án Sun Grand City Quảng An - Hồ Tây
Ngày 30/9/2017, với những lời kêu gọi được đăng tải trên mạng facebook phản đối việc thi công dự án Sun Grand City Quảng An... -
Hà Nội chịu tác động khí thải của 20 nhà máy nhiệt điện than
Tại buổi hội thảo về ô nhiễm không khí được tổ chức vào tối 5-6, hầu hết các chuyên gia đều cho rằng, ô nhiễm không khí tại Thủ đô Hà ... -
Chính Phủ mới liệu có khá hơn trong việc bảo vệ rừng và chống biến đổi khí hậu
Những bài học đắt giá mà Việt Nam đã phải đối mặt trong nhiều năm qua đó là tài nguyên rừng càng ngày càng suy giảm, nhiều diện tích rừng gầ... -
Báo động tình trạng ô nhiễm môi trường sông Bắc Hưng Hải
Rác thải gây ô nhiễm nguồn nước sông Sài Thị (thuộc hệ thống sông Bắc Hưng Hải) tại xã Thuần Hưng (Khoái Châu, Hưng Yên). Theo bạn đọc... -
Thuế bảo vệ môi trường: Có thực vì môi trường?
Thu thuế bảo vệ môi trường là để bảo vệ môi trường, không thể đóng vai trò nào khác. Lộ trình mà Chính phủ vạch ra để Lu...
Tham khảo
Phân loại
Tin môi trường
(75)
Môi trường
(43)
Tin tức
(31)
Formosa
(29)
Tin hoạt động
(28)
Sự kiện
(24)
Bình luận & Nhận định
(23)
Video
(18)
Kiến thức về môi trường
(17)
Báo cáo môi trường
(8)
Luật môi trường
(8)
Phát triển bền vững
(8)
Tư liệu
(8)
Chiến lược & Chính sách
(4)
Kinh tế xanh
(4)
Tin công nghệ
(4)
Tiết kiệm năng lượng
(3)
Tản mạn
(1)
Theo thời gian