Hiển thị các bài đăng có nhãn Tin môi trường. Hiển thị tất cả bài đăng
Nói chuyện cây
Hai năm sau câu chuyện 6.700 cây xanh, nỗi ám ảnh của nó vẫn treo lơ lửng trên bầu trời mùa hạ 40 độ của thủ đô Hà Nội.
Hãy điểm lại những gì đã đi vào ký ức của cộng đồng: câu nói bất hủ “Chặt cây mà cũng phải hỏi dân à?”, buổi họp báo kéo dài vỏn vẹn 10 phút với 21 câu hỏi không được trả lời, các biểu ngữ “Tôi yêu cây” quanh hồ Gươm... Vĩnh viễn nằm trong trí nhớ của tôi và tôi tin chắc của nhiều người khác là câu hỏi mang tính hiện sinh sâu sắc: “Mỡ hay vàng tâm?”.
Dự án “Chặt hạ, thay thế 6.700 cây xanh” vì một đô thị “văn minh, hiện đại” đã lặng lẽ bị xếp xó với tất cả những “quy hoạch khoa học và triển khai đúng quy trình” của nó.
Nhưng dường như tới giờ, chính quyền Hà Nội vẫn chưa rút ra được đầy đủ những bài học về minh bạch, về giải trình, về nghệ thuật đối thoại và làm việc với dân, tóm lại, về những gì quan trọng trong quản trị nhà nước, khi tuần qua báo chí liên tiếp đưa tin: “Hàng cây 1.300 gốc sắp bị chặt hạ” và “Hà Nội đề xuất thay thế 4.000 cây xà cừ”.
Lúc thì những cái cây phải nhường chỗ cho “phát triển”. Lúc thì chúng “u bướu”, “cong”, “nghiêng”, “già cỗi”, “thiếu thẩm mỹ”, “rễ nông, dễ đổ” và “các nước tiên tiến không trồng”.
Đã đến lúc phải phân tích sâu hơn các luận điểm này.
Luận điểm đầu tiên: Cây xà cừ không thích hợp với các thành phố nhiệt đới; người Pháp đã sai lầm khi trồng chúng ở Việt Nam; chúng ta đã đúng khi từ những năm 1960 không trồng chúng nữa và bây giờ chúng ta phải triệt hạ chúng hoàn toàn.
Ý kiến này có cơ sở thế nào?
Tên Latin của xà cừ là Khaya senegalensis, khá dễ dàng xác định nó xuất xứ từ châu Phi, nhưng trong thế kỷ 20 đã được trồng rộng rãi ở các quốc gia có khí hậu phù hợp khác.
Sau ba cái nhấn chuột, tôi gặp một tài liệu của Tổ chức quốc tế FAO về những chương trình phủ xanh đô thị của Chính phủ Malaysia từ thập kỷ 1970 tới 1990 nhằm biến đất nước này thành một “Quốc gia - Vườn” (Garden Nation).
Vào những năm 1980, khắp nơi ở Kuala Lumpur người ta tiến hành phương pháp “trồng cây tức thì” (instant tree planting) trồng những thân cây lớn, làm xanh thành phố gần như sau một đêm.
Đoạn giữa tài liệu này có một câu khiến tôi mở to mắt: “Các loài cây không bản địa mang tên Khaya senegalensis được coi là lý tưởng cho chương trình này”. Kèm theo là bức ảnh hàng xà cừ cao hơn nhà ba tầng chạy dọc một con đường đầy xe cộ. Không thấy họ nói gì về chuyện “rễ nông, dễ đổ”.
Ngược lại, theo Trung tâm Nông lâm nghiệp thế giới, xà cừ có bộ rễ cái sâu, chắc và khỏe, khiến chúng chịu hạn và vừa chịu lũ lụt tốt, “có thể trồng được cả ở đất sình lầy”.
Hai cái nhấn chuột tiếp theo đưa tôi tới Singapore. Trang mạng của Vườn bách thảo Singapore (Singapore Botanic Gardens) cho biết về loài Khaya senegalensis như sau: “Xuất xứ: châu Phi nhiệt đới. Loài này đã được du nhập Đông Nam Á hơn một thế kỷ trước.
Vào thập kỷ 1980 tại Singapore, nó trở thành cây đường phố được ưa chuộng vì tốc độ lớn nhanh, dễ ghép và khả năng chịu đựng những điều kiện đô thị khắc nghiệt”.
Thế còn bên ngoài Đông Nam Á thì sao? Tiến sĩ Roger Anold của Trường ĐH North Carolina cho biết: “Khaya senegalensis hay được trồng nhằm mục đích cảnh quan và tiện nghi ở những vùng nhiệt đới tại các lục địa.
Ở Tây Phi, loài cây này đã trở thành cây đô thị quan trọng. Ở Úc, nó được trồng ở thành phố Darwin. Ở tỉnh Hainan, Trung Quốc, nó trở thành một trong những loài cây bóng mát và cây tiện nghi (amenity tree) phổ biến nhất”.
Thuật ngữ “amenity tree” trở đi trở lại. Theo giải thích của tiến sĩ Kim Coder - ĐH Georgia, “amenity tree” (tôi tạm dịch là cây tiện nghi) là một cây có khả năng tăng tính hấp dẫn và sự dễ chịu của không gian xung quanh nó bằng cách “cung cấp sự che chở, an ủi và trợ giúp tâm lý cho con người”, khiến họ “thoải mái và hạnh phúc hơn”.
Vậy là ở nhiều quốc gia khác, cây xà cừ không chỉ được coi là cây bóng mát đơn thuần. Kích thước khổng lồ của nó, cái gồ ghề, sần sùi chính những cái “u bướu”, “cong”, “nghiêng” của nó, những cái làm gai mắt các quan chức Hà Nội, lại khiến nó trở thành nguồn an ủi và che chở cho những cư dân đô thị, là nơi lưu giữ thời gian, ký ức, lịch sử, là cái tạo bản sắc cho nơi chốn, tạo cảm giác thuộc về.
Một gốc cây là một thực thể sống và mang trong mình các yếu tố văn hóa và tâm lý, những thứ khiến nó khác một cột ximăng có mái che.
Trong khi Sở Xây dựng Hà Nội toan loại bỏ cây xà cừ vì chúng mắc tội “già cỗi” thì ở Singapore, cây xà cừ do ông Lý Quang Diệu trồng vào tháng 11-1980 gần hồ Thiên nga (Swan Lake) nay đã cao 48m, được đưa vào danh sách cây di sản (Heritage Tree) cùng hàng trăm cây đầy “u bướu” khác.
Chính sự “già cỗi” của chúng đã biến chúng thành những “landmark” - những cột mốc cảnh quan cần được bảo vệ như những di sản thiên nhiên.
Những gốc xà cừ cổ thụ trên đường Phạm Văn Đồng (Hà Nội) -Nam Trần
Quay lại với 1.300 cây dọc đường Phạm Văn Đồng. Thật tiện lợi khi coi chúng là những vật cản trở “phát triển” và “sự thịnh vượng của con người”. Diễn ngôn này đang được dùng để biến thiên nhiên thành máy đẻ lợi nhuận.
Nhưng phát triển không có nghĩa là chặt hạ vô cảm. Giữ cây không có nghĩa là ưa thích đói nghèo, lạc hậu.
Ngược lại, những người không nhìn thấy sự uy nghi của những cánh rừng, không nhìn thấy phẩm giá của những gốc cây già trong thành phố và trân trọng giá trị của chúng trong cuộc sống hiện đại, cho rằng phải loại bỏ chúng để “phát triển”, sẽ có nguy cơ đi theo một đường hướng phát triển méo mó.
Các nhà chức trách Hà Nội sẽ phải có chứng cứ rất tốt, rất đầy đủ để chứng minh cho công luận rằng họ thực sự không có cách nào khác là phải chặt bỏ 1.300 gốc cây kia đi.
Và họ sẽ phải dành nhiều thời gian, không gian để đối thoại với người dân, với các tổ chức xã hội, với các nhà chuyên môn để tìm ra giải pháp tối ưu. Quan điểm cây phải nhường bêtông thì mới văn minh đã lỗi thời.
Một thành phố chỉ đầy cầu vượt, đường trên cao, cao ốc mà thiếu cây xanh, công viên, hồ nước... là một thành phố thảm hại.
Một chiến lược phát triển đô thị mà quên đi những điều này là một chiến lược nuôi dưỡng xung đột và sự bất bình âm ỉ giữa người dân với chính quyền, và tôi không cho rằng đó là di sản mà chính quyền Hà Nội đang hướng tới.
- Đăng Hoàng Giang -
Báo động tình trạng ô nhiễm môi trường sông Bắc Hưng Hải
Rác thải gây ô nhiễm nguồn nước sông Sài Thị (thuộc hệ thống sông Bắc Hưng Hải) tại xã Thuần Hưng (Khoái Châu, Hưng Yên).
Theo bạn đọc phản ánh, trong thời gian gần đây, tình trạng ô nhiễm môi trường nước mặt thuộc hệ thống thủy nông Bắc Hưng Hải, đoạn qua địa phận tỉnh Hưng Yên ngày càng nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân.
Trước thực trạng này, các cơ quan chức năng cần sớm tìm rõ nguyên nhân gây ô nhiễm, đồng thời xử lý nghiêm đối với các cơ sở sản xuất, nhà máy xả thải.
Hệ thống sông Bắc Hưng Hải (BHH) được xây dựng từ năm 1958, có tổng chiều dài hệ thống sông chính khoảng 232 km và hơn 2.000 km kênh nhánh các loại, chủ yếu ở các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh. Nguồn nước cấp cho hệ thống BHH lấy từ sông Hồng qua cống Xuân Quan, thuộc huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, phục vụ tưới, tiêu cho khoảng 110 nghìn ha đất canh tác lúa, hoa màu, cây công nghiệp; cung cấp nước cho chăn nuôi, thủy sản và nước sinh hoạt cho nhân dân trong khu vực. Hệ thống sông BHH thuộc địa phận tỉnh Hưng Yên có sông chính và các phụ lưu với tổng chiều dài hơn 100 km, cung cấp nước cho khoảng 50.000 ha đất canh tác và đầm hồ nuôi trồng thủy sản.
Hệ thống BHH được xây dựng với mục đích chính là cung cấp nước tưới, tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp; nhưng trong quá trình phát triển đô thị hóa và công nghiệp hóa, hiện nay hệ thống sông BHH phải đảm nhận thêm chức năng tiếp nhận nước thải dân sinh, nước thải từ các đơn vị sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, các bệnh viện, làng nghề, cơ sở chăn nuôi, thậm chí cả rác thải… với lưu lượng ngày càng lớn.
Ở tỉnh Hưng Yên, tổng lượng nước thải phát sinh trên địa bàn đang xả thải vào môi trường khoảng 134.401 m3/ngày đêm, chủ yếu xả thải vào sông BHH và các sông nhánh; trong đó, nước thải của các khu, cụm công nghiệp và các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ chiếm 28%; nước thải của các cơ sở y tế chiếm 2%; nước thải của khu dân cư, các làng nghề, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nhỏ lẻ, cơ sở chăn nuôi chiếm 70%. Phần lớn lượng nước thải chưa qua xử lý hoặc có qua xử lý cũng chưa đạt tiêu chuẩn.
Ngoài ra, tại đầu nguồn sông BHH phải tiếp nhận lượng nước bị ô nhiễm có nguồn gốc từ nước thải công nghiệp, dịch vụ, làng nghề, dân sinh dọc lưu vực sông Cầu Bây chạy qua quận Long Biên và huyện Gia Lâm (Hà Nội) qua cống Xuân Thụy. Ðây cũng là nguyên nhân làm nguồn nước sông BHH ngày càng bị ô nhiễm trầm trọng. Nước sông Cầu Bây mầu đen, sủi bọt trắng thường xuyên xả vào sông BHH, với tần suất ngày một tăng lên; mỗi tuần từ hai đến ba lần, mỗi lần kéo dài một đến hai ngày.
Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Hưng Yên Trần Ðăng Anh cho biết, nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng nêu trên do hệ thống sông BHH phải tiếp nhận nhiều nguồn nước thải với lưu lượng ngày càng lớn, dẫn đến quá tải; nhất là nước thải chưa được xử lý hoặc đã xử lý nhưng chưa đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về môi trường. Hệ thống sông BHH thường xuyên đóng để trữ nước nên tình trạng nước ứ đọng, không lưu thông, chủ yếu vào mùa khô cũng góp phần gây ô nhiễm. Việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường chưa được nghiêm, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các tỉnh, thành phố trong việc quản lý, xử lý nguồn nước xả thải gây ô nhiễm…
Trước tình trạng này, tỉnh Hưng Yên đã đưa ra giải pháp ngăn chặn, giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường trên hệ thống sông BHH như quy định các khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung phải có hệ thống thu gom, xử lý nước thải đạt giá trị giới hạn quy định tại cột A (đạt chuẩn A) của quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường. Triển khai mô hình phân loại, xử lý rác thải sinh hoạt hữu cơ tại hộ gia đình. Lắp đặt hệ thống nhận dữ liệu quan trắc tự động, thiết bị giám sát lấy mẫu tự động nước thải sau xử lý của các đơn vị có lưu lượng nước thải, khí thải lớn, tăng cường thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định bảo vệ môi trường, xử lý các hành vi gây ô nhiễm môi trường.
Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện các giải pháp bảo vệ môi trường hiệu quả chưa cao; nhất là việc ngăn chặn nguồn nước ô nhiễm từ sông Cầu Bây chảy vào hệ thống sông BHH. Do vậy, để giải quyết khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường nước sông BHH cần có sự vào cuộc và phối hợp của các bộ, ngành, địa phương cải tạo, nâng cấp toàn hệ thống sông BHH, bảo đảm sông BHH ngoài chức năng tưới, tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp hiện nay có thêm chức năng tiêu thoát nước thải cho công nghiệp, dân sinh trong tình hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của khu vực phát triển nhanh.
Xây dựng mạng lưới quan trắc tự động đánh giá chất lượng nước tưới tiêu trên hệ thống sông BHH gửi kết quả cho các tỉnh, thành phố có hệ thống sông BHH để cảnh báo người dân, các tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quan có biện pháp giảm thiểu ảnh hưởng.
Kiểm tra, đánh giá và xác định nguyên nhân làm nước sông Cầu Bây bị ô nhiễm; tăng cường thanh tra, kiểm tra theo thẩm quyền việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nhất là các cơ sở có phát sinh nước thải lớn xả thải vào hệ thống sông Cầu Bây. Sớm đầu tư, xây dựng đưa vào vận hành những công trình xử lý nước thải đô thị trên địa bàn quận Long Biên theo kế hoạch của UBND thành phố Hà Nội về việc phát triển hệ thống thu gom và xử lý nước thải đô thị TP Hà Nội giai đoạn đến năm 2020.
Các cơ quan quản lý thường xuyên trao đổi, chia sẻ thông tin về thực trạng các nguồn xả nước thải vào sông và chất lượng nước sông, các biện pháp đã và đang thực hiện nhằm khắc phục tình trạng nước sông bị ô nhiễm…
"Hệ thống sông Bắc Hưng Hải trên địa bàn tỉnh Hưng Yên có chín dòng sông, kênh (chiếm 25% tổng số sông, kênh điều tra, khảo sát trên địa bàn tỉnh Hưng Yên) bị ô nhiễm rất nghiêm trọng; 12 dòng sông, kênh ô nhiễm nghiêm trọng; 15 dòng sông, kênh ô nhiễm trung bình. Năm 2015 và 2016, khi lấy 165 mẫu nước mặt, phân tích 19 chỉ tiêu về môi trường, kết quả cho thấy 100% mẫu nước mặt có chỉ tiêu phân tích vượt quy chuẩn kỹ thuật; trong đó, có nhiều chỉ tiêu vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường từ vài lần đến hàng chục lần...".
(Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Hưng Yên)
"Nguồn nước sông Bắc Hưng Hải bị ô nhiễm nghiêm trọng không chỉ ảnh hưởng đến sản xuất mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người dân. Chúng tôi cho rằng, nguyên nhân chính là do một số nhà máy trên địa bàn xả thải. Ðề nghị các cơ quan chức năng xử lý nghiêm các doanh nghiệp cố tình vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường...".
VŨ THỊ TÌNH
(Xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên)
- PHẠM HÀ-
Theo bạn đọc phản ánh, trong thời gian gần đây, tình trạng ô nhiễm môi trường nước mặt thuộc hệ thống thủy nông Bắc Hưng Hải, đoạn qua địa phận tỉnh Hưng Yên ngày càng nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân.
Trước thực trạng này, các cơ quan chức năng cần sớm tìm rõ nguyên nhân gây ô nhiễm, đồng thời xử lý nghiêm đối với các cơ sở sản xuất, nhà máy xả thải.
Hệ thống sông Bắc Hưng Hải (BHH) được xây dựng từ năm 1958, có tổng chiều dài hệ thống sông chính khoảng 232 km và hơn 2.000 km kênh nhánh các loại, chủ yếu ở các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh. Nguồn nước cấp cho hệ thống BHH lấy từ sông Hồng qua cống Xuân Quan, thuộc huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, phục vụ tưới, tiêu cho khoảng 110 nghìn ha đất canh tác lúa, hoa màu, cây công nghiệp; cung cấp nước cho chăn nuôi, thủy sản và nước sinh hoạt cho nhân dân trong khu vực. Hệ thống sông BHH thuộc địa phận tỉnh Hưng Yên có sông chính và các phụ lưu với tổng chiều dài hơn 100 km, cung cấp nước cho khoảng 50.000 ha đất canh tác và đầm hồ nuôi trồng thủy sản.
Hệ thống BHH được xây dựng với mục đích chính là cung cấp nước tưới, tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp; nhưng trong quá trình phát triển đô thị hóa và công nghiệp hóa, hiện nay hệ thống sông BHH phải đảm nhận thêm chức năng tiếp nhận nước thải dân sinh, nước thải từ các đơn vị sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, các bệnh viện, làng nghề, cơ sở chăn nuôi, thậm chí cả rác thải… với lưu lượng ngày càng lớn.
Ở tỉnh Hưng Yên, tổng lượng nước thải phát sinh trên địa bàn đang xả thải vào môi trường khoảng 134.401 m3/ngày đêm, chủ yếu xả thải vào sông BHH và các sông nhánh; trong đó, nước thải của các khu, cụm công nghiệp và các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ chiếm 28%; nước thải của các cơ sở y tế chiếm 2%; nước thải của khu dân cư, các làng nghề, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nhỏ lẻ, cơ sở chăn nuôi chiếm 70%. Phần lớn lượng nước thải chưa qua xử lý hoặc có qua xử lý cũng chưa đạt tiêu chuẩn.
Ngoài ra, tại đầu nguồn sông BHH phải tiếp nhận lượng nước bị ô nhiễm có nguồn gốc từ nước thải công nghiệp, dịch vụ, làng nghề, dân sinh dọc lưu vực sông Cầu Bây chạy qua quận Long Biên và huyện Gia Lâm (Hà Nội) qua cống Xuân Thụy. Ðây cũng là nguyên nhân làm nguồn nước sông BHH ngày càng bị ô nhiễm trầm trọng. Nước sông Cầu Bây mầu đen, sủi bọt trắng thường xuyên xả vào sông BHH, với tần suất ngày một tăng lên; mỗi tuần từ hai đến ba lần, mỗi lần kéo dài một đến hai ngày.
Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Hưng Yên Trần Ðăng Anh cho biết, nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng nêu trên do hệ thống sông BHH phải tiếp nhận nhiều nguồn nước thải với lưu lượng ngày càng lớn, dẫn đến quá tải; nhất là nước thải chưa được xử lý hoặc đã xử lý nhưng chưa đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về môi trường. Hệ thống sông BHH thường xuyên đóng để trữ nước nên tình trạng nước ứ đọng, không lưu thông, chủ yếu vào mùa khô cũng góp phần gây ô nhiễm. Việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường chưa được nghiêm, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các tỉnh, thành phố trong việc quản lý, xử lý nguồn nước xả thải gây ô nhiễm…
Trước tình trạng này, tỉnh Hưng Yên đã đưa ra giải pháp ngăn chặn, giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường trên hệ thống sông BHH như quy định các khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung phải có hệ thống thu gom, xử lý nước thải đạt giá trị giới hạn quy định tại cột A (đạt chuẩn A) của quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường. Triển khai mô hình phân loại, xử lý rác thải sinh hoạt hữu cơ tại hộ gia đình. Lắp đặt hệ thống nhận dữ liệu quan trắc tự động, thiết bị giám sát lấy mẫu tự động nước thải sau xử lý của các đơn vị có lưu lượng nước thải, khí thải lớn, tăng cường thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định bảo vệ môi trường, xử lý các hành vi gây ô nhiễm môi trường.
Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện các giải pháp bảo vệ môi trường hiệu quả chưa cao; nhất là việc ngăn chặn nguồn nước ô nhiễm từ sông Cầu Bây chảy vào hệ thống sông BHH. Do vậy, để giải quyết khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường nước sông BHH cần có sự vào cuộc và phối hợp của các bộ, ngành, địa phương cải tạo, nâng cấp toàn hệ thống sông BHH, bảo đảm sông BHH ngoài chức năng tưới, tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp hiện nay có thêm chức năng tiêu thoát nước thải cho công nghiệp, dân sinh trong tình hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của khu vực phát triển nhanh.
Xây dựng mạng lưới quan trắc tự động đánh giá chất lượng nước tưới tiêu trên hệ thống sông BHH gửi kết quả cho các tỉnh, thành phố có hệ thống sông BHH để cảnh báo người dân, các tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quan có biện pháp giảm thiểu ảnh hưởng.
Kiểm tra, đánh giá và xác định nguyên nhân làm nước sông Cầu Bây bị ô nhiễm; tăng cường thanh tra, kiểm tra theo thẩm quyền việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nhất là các cơ sở có phát sinh nước thải lớn xả thải vào hệ thống sông Cầu Bây. Sớm đầu tư, xây dựng đưa vào vận hành những công trình xử lý nước thải đô thị trên địa bàn quận Long Biên theo kế hoạch của UBND thành phố Hà Nội về việc phát triển hệ thống thu gom và xử lý nước thải đô thị TP Hà Nội giai đoạn đến năm 2020.
Các cơ quan quản lý thường xuyên trao đổi, chia sẻ thông tin về thực trạng các nguồn xả nước thải vào sông và chất lượng nước sông, các biện pháp đã và đang thực hiện nhằm khắc phục tình trạng nước sông bị ô nhiễm…
"Hệ thống sông Bắc Hưng Hải trên địa bàn tỉnh Hưng Yên có chín dòng sông, kênh (chiếm 25% tổng số sông, kênh điều tra, khảo sát trên địa bàn tỉnh Hưng Yên) bị ô nhiễm rất nghiêm trọng; 12 dòng sông, kênh ô nhiễm nghiêm trọng; 15 dòng sông, kênh ô nhiễm trung bình. Năm 2015 và 2016, khi lấy 165 mẫu nước mặt, phân tích 19 chỉ tiêu về môi trường, kết quả cho thấy 100% mẫu nước mặt có chỉ tiêu phân tích vượt quy chuẩn kỹ thuật; trong đó, có nhiều chỉ tiêu vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường từ vài lần đến hàng chục lần...".
(Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Hưng Yên)
"Nguồn nước sông Bắc Hưng Hải bị ô nhiễm nghiêm trọng không chỉ ảnh hưởng đến sản xuất mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người dân. Chúng tôi cho rằng, nguyên nhân chính là do một số nhà máy trên địa bàn xả thải. Ðề nghị các cơ quan chức năng xử lý nghiêm các doanh nghiệp cố tình vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường...".
VŨ THỊ TÌNH
(Xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên)
- PHẠM HÀ-
Trong 1 ngày, 13.000 m2 đất rừng thành đất ở cho Giám đốc Sở tài nguyên Yên Bái
(GDVN) - Chỉ trong 1 ngày, 06 quyết định có số liên tiếp nhau được cấp dưới ký để chuyển hàng ngàn mét vuông đất rừng sang đất ở cho nhà ông Giám đốc Sở Tài nguyên.
Ngày 20/7/2015, ông Nguyễn Yên Hiền, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Yên Bái đã “vung bút” ký liên tiếp 06 quyết định chuyển đổi hơn 13 ngàn mét vuông đất rừng sản xuất, đất trồng cây lâu năm, đất nuôi trồng thủy sản sang… "đất ở" cho gia đình ông Phạm Sỹ Quý, Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Yên Bái.
Đó là các Quyết định số 2356, 2357, 2358, 2359, 2360 và 2361, tổng diện tích của 06 quyết định “siêu tốc” này là 13 ngàn 272 mét vuông đất rừng, đất trồng cây lâu năm, đất thủy sản "biến" thành đất ở.
Đến ngày 02/6/2016, lại chính ông Nguyễn Yên Hiền ký tiếp Quyết định số 1639/QĐ-UBND để chuyển đổi 308 mét vuông cho gia đình ông Quý.
Tháng 9/2016, ông Phạm Sỹ Quý được bổ nhiệm làm Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Yên Bái. Ảnh Báo Tài nguyên Môi trường.
Như vậy, sau 07 quyết định của Ủy ban thành phố Yên Bái (trong đó 06 quyết định ký 01 ngày), gia đình ông Giám đốc Sở Tài nguyên đã có khu “đất ở” với tổng diện tích 13.577m2, và hợp thành một khu đất rộng bao la ở tổ 42, phường Minh Tân, thành phố Yên Bái.
Người đứng tên quyết định là vợ ông Quý - bà Hoàng Thị Huệ, sinh năm 1975, thường trú tại tổ 51, phường Minh Tân, thành phố Yên Bái.
Căn cứ mà ông Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Yên Bái “vung bút” là Quyết định số 666/QĐ-UBND ngày 12/5/2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái "về việc xét duyệt điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2011 – 2015) của thành phố Yên Bái".
Theo chức năng, nhiệm vụ thì chính Sở Tài nguyên Môi trường, nơi ông Quý đang làm Giám đốc là đơn vị chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan lập, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của địa phương trình Ủy ban nhân dân tỉnh để ban hành Quyết định số 666/QĐ-UBND ngày 12/5/2014.
Khu đất của gia đình ông Quý, với những công trình mà nhiều dân địa phương phải trầm trồ, khen ngợi. Ảnh Hải Ninh
Quyết định số 666/QĐ-UBND ngày 12/5/2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái phần “Cơ quan, chủ đầu tư” lại chỉ ghi tên “người dân”, chứ không hề ghi là gia đình Giám đốc Sở Tài nguyên;
Phần “Quy mô diện tích dự kiến thực hiện” ghi là 2,98 héc ta, trong đó đất trồng lúa là 03 héc ta, đất khác là 2,68 héc ta… Quyết định cũng ghi rõ, thời gian thực hiện và hoàn thành là năm 2016.
Như vậy, gia đình ông Quý đã đi trước “người dân” 1 bước, khi tháng 7/2015 đã hoàn thành việc chuyển đổi mục đích và trong số 2,68 héc ta "đất khác" mà tỉnh quy hoạch cho phép người dân chuyển đổi thì gia đình ông Giám đốc Sở đã “ôm trọn” hơn 1,3 héc ta (chiếm gần 50%) diện tích.
Người đề xuất ký các quyết định trên chính là Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố Yên Bái – đây là cấp dưới (theo ngành dọc) của ông Quý.
Trao đổi với phóng viên Báo điện tử Giáo dục Việt Nam ngày 07/6/2017, lúc đầu, ông Phạm Sỹ Quý không thừa nhận đây là khu đất của gia đình ông.
Ông Quý cho rằng: “Đấy không phải nhà tôi. Tôi làm gì có nhiều đất như vậy…”.
Khi phóng viên đặt câu hỏi: “Thế người đứng tên là bà Hoàng Thị Huệ, sinh năm 1975, ở tổ 51 phường Minh Tân không phải là vợ ông?”.
Lúc này ông Quý lại biện bạch: “Huệ đúng là vợ tôi, nhưng đất không phải của tôi…”.
Lòng vòng mãi tới khi phóng viên trưng ra bằng chứng “không thể chối cãi” thì ông Giám đốc Sở Tài nguyên mới thừa nhận đây chính là khu đất gia đình ông và bản thân ông đang phải làm “giải trình” cho lãnh đạo tỉnh.
Cùng ngày, trao đổi với phóng viên Báo điện tử Giáo dục Việt Nam, ông Nguyễn Văn Khánh, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái xác nhận đây là khu đất gia đình ông Phạm Sỹ Quý, Giám đốc Sở Tài nguyên Môi trường.
“Tôi đã nắm được sự việc này và tỉnh cũng đang yêu cầu Ủy ban nhân dân thành phố Yên Bái và Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh làm rõ quy trình, thủ tục chuyển đổi. Tỉnh cũng đang yêu cầu ông Quý báo cáo giải trình…”, ông Khánh cho biết.
Phóng viên Báo điện tử Giáo dục Việt Nam cũng liên hệ làm việc với ông Đỗ Đức Duy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái. Mặc dù nắm được nội dung mà báo chí đang xác minh, làm rõ liên quan đến khu đất gia đình ông Giám đốc Sở Tài nguyên nhưng ông Duy từ chối phát ngôn và hướng dẫn phóng viên làm việc với Chánh Văn phòng tỉnh.
Vụ việc ông Phạm Sỹ Quý, Giám đốc Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Yên Bái “thâu tóm” hơn 13 ngàn mét vuông đất rừng, đất thủy sản rồi chuyển đổi sang đất ở để xây các công trình quy mô đồ sộ là điều khó có thể chấp nhận được? Ai đang đứng ra che chắn, để cho các cơ quan chức năng và các cá nhân làm như vậy?
Vào ngày 09/9/2016, ông Phạm Sỹ Quý (sinh năm 1971) được bà Phạm Thị Thanh Trà, lúc này là Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái (hiện bà Trà là Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái) ký quyết định bổ nhiệm làm Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường. Trả lời trên báo chí, bà Phạm Thị Thanh Trà khẳng định, việc bà ký bổ nhiệm ông Quý là thừa hành theo luật định ở vị trí mà bà đang đương nhiệm chứ không phải là quyết định cá nhân. "Quy trình bổ nhiệm là cực kỳ chặt chẽ, không có gì để gọi là ưu ái trong trường hợp này", bà Trà khẳng định.
- Hải Ninh-
Formosa vết chém thấu tim dân tộc Việt
Thảm họa quốc gia về ô nhiễm môi trường đã hiển hiện qua sự kiện cá chết hàng loạt ở các tỉnh ven biển miền Trung. Giới khoa học cho rằng đây là hậu quả của nhiều thập niên phát triển kinh tế bằng mọi giá và xem nhẹ việc hủy hoại môi trường.
Che chắn và trấn áp tiếng dân
Trong khi những xí nghiệp lỗi thời ô nhiễm cao như khoáng sản, luyện kim, điện than, hóa chất, bị kiểm soát chặt chẽ và tẩy chay khắp thế giới, Việt Nam lại hoan hỉ chào đón họ, cho họ chốn vạn đại dung thân 50 đến 70 năm. Khi tai họa đổ ra, dân chúng tố cáo các vi phạm của họ, chính quyền lại che chắn cho họ và trấn áp tiếng dân. Chính sách phát triển hiện nay là đầu tư và đầu tư bất chấp tác động nặng nề và lâu dài trên môi sinh con cháu phải gánh chịu.
Nhà máy luyện thép Hưng Nhiệp của công ty Formosa là một dự án đại quy mô trên thế giới, với công suất khởi đầu 7,5 triệu tấn/năm và số vốn 15 tỉ USD, tự nó xếp hàng thứ 18 nếu so sánh về khả năng sản xuất thép của các quốc gia trtên thế giớị. Khi xây dựng họ đã xả nước thải ô nhiễm ra biển Hà Tĩnh gây ra thảm trạng cá chết trải rộng 200 km duyên hải Trung Việt một năm trước đây. Công Ty Formosa đã nhận lỗi và thoả thuận với chính quyền Việt Nam bồi thường 500 triệu USD dù giới chuyên gia thẩm định thiệt hại có thể cao hơn cả trăm lần.
Cho đến nay, môi sinh biển vẫn chưa hồi phục, hải sản chưa an toàn và đơn tố cáo và khiếu nại của dân không được xét xử. Chính quyền gần đây đã nhìn nhận phải 50 năm hay lâu hơn biển mới hy vọng được phục hồi và đã kiểm tra Formosa buộc họ khắc phục mọi lỗi lầm trước khi cho hoạt động. Vừa qua chính quyền tuyên bố Formosa đã khắc phục 52 trong 53 vi phạm, dù chưa hoàn chỉnh vẫn cho phép Formosa đi vào hoạt động.
Lỗi thứ 53 là Formosa là một vi phạm cố ý có tính hình sự, vì đã âm thầm tráo đổi kỹ thuật của lò dập cốc (có mục đích dập lửa và làm nguội) thay vì dùng khí trơ khô lại đổi thành nước ướt để tăng lợi nhuận. Đó là một hành vi gian lận mờ ám vì ô nhiễm từ kỹ thuật ướt xả ra cao hơn kỹ thuật khô hai đến ba lần và sản lượng thép làm ra được lại kém đi mất 20%. Ô nhiễm giúp Formosa tăng lợi nhuận nhưng dân cư phải trả giá bằng sức khoẻ, giảm tuổi thọ và sống trong môi sinh suy thoái không thể vãn hồi.
Không ý thức trách nhiệm
Hiện trường nơi xảy ra vụ nổ ở lò cao số 1 của Công ty Formosa. Courtesy NLĐ
Sau thảm trạng môi sinh biển năm ngoái, dân cư mong đợi chính quyền và Formosa rà soát lại toàn bộ quy trình và thiết kế nhà máy để bảo đảm không cho ô nhiễm nhà máy khuếch tán ra ngoài mất kiểm soát trong mọi tình huống. Nhưng cả Formosa và chính quyền đã không có khả năng, trình độ chuyên môn và ý thức trách nhiệm để tiên liệu và đối phó với nhà máy đầy ô nhiễm bất kham này. Chỉ một ngày sau khi long trọng cho nhà máy bắt đầu hoạt động đã xảy ra một vụ cháy và tiếng nổ vang xa ba km vẫn còn nghe thấy.
Việc không dừng ở đó, vì chính quyền điều tra và kết luận rằng thiết bị lọc bụi tại lò vôi bị vỡ gây ra, và nổ lò vôi là bình thường. Giải thích này hoàn toàn phi cơ sở khoa học và mang dấp dáng một màn the che chắn thiếu trình độ.
Hình trên cho là nơi gây nổ cháy nhưng không có một chút vết tích khói bụi cháy bám vào. Vôi không phải là chất cháy được, bụi vôi không có trong danh sách bụi có khả năng cháy. Hình ảnh bụi khói bốc lên nghi ngút trong ánh lửa bao cả nhà máy là chứng cớ phản ứng cháy của nhiên liệu có nhiệt lượng cao. Như thế, lò vôi không chỉ chứa vôi phải chứa nhiên liệu; nhiên liệu trộn vào có thể chỉ vì tắc trách của nhân công, hay do hệ thống lọc bụi vôi hút cả bụi than nơi khác trộn lẫn vào, do thiết kế hay nhà thầu thực hiện sai lầm.
Giả thuyết nổ cháy do vôi là phản khoa học phải bác bỏ, giả thuyết do bụi than có khả năng tin cậy cao nhất vì quy trình lò luyện cốc cần cả vôi và than tại nhà máy. Thực vậy, than đá là chất dễ bắt cháy, bụi than nhỏ sẽ có nhiều diện tích mặt tiếp xúc với oxy nên bụi than có nguy cơ nổ cháy rất cao. Nếu bụi than bị hút chung vào hệ thống lọc bụi vôi khi nồng độ than đủ 60g/m3 và chạm phải nguồn lửa (Ignition sources) chạm mặt có nhiệt độ ở 540 C là đủ điều kiện để nổ.
Giả thuyết tin cậy thứ hai là khi hệ thống cung cấp điện trong nhà máy không được thiết kế bằng những thiết bị an toàn chế tạo chỉ để dùng trong khu vực có nguy cơ nổ cháy (classified electrical devices), những nơi có bụi than hay khí đốt cháy (flammable gas) nếu dùng thiết bị điện loại thường sẽ "spark" phát lửa và gây ra cháy nổ.
Những vấn đề môi sinh từ Formosa có thể khắc phục không? Không vì vài lý do sau:
1.Không thể khắc phục vì đầu tư vào dự án này không còn hiệu quả kinh tế. Hiện nay thị trường thép thế giới chỉ tiêu thụ được nửa công suất các nhà máy thép đang hoạt động. Không chủ đầu tư nào lại bỏ thêm hàng trăm triệu vốn bảo vệ môi sinh để phải gánh lỗ hơn lên.
2.Không thể khắc phục vì trình độ văn hoá chuyên môn và kinh nghiệm của Formosa và chính quyền không đủ khả năng để tiên liệu và giải quyết tận gốc các sự cố kỹ thuật phức tạp.
3.Không thể khắc phục vì hệ thống tư pháp không độc lập nên không áp chế được chính quyền và xí nghiệp. Chính vì thế thương lượng với chính quyền là đáp án nhanh chóng, dễ dàng và ít tốn kém nhất cho xí nghiệp như món tiền 500 triệu năm ngoái.
4.Không thể khắc phục khi Việt Nam vẫn tin vào 16 chữ vàng.
Khách không bỏ rác nhà mình nếu mình không mời họ mang vào, cả nước đều biết rõ nếu khắc phục được bốn nguyên nhân trên, đất nước sẽ được trở về lộ trình bền vững, chính quyền sẽ được lòng 90 triệu dân và đầu tư bền sạch sẽ đổ vào.
- Phạm Phan Long- RFA
Sơn Trà không chỉ "lá phổi"mà còn là "dạ dày",thưa Phó Thủ Tướng
Green Trees nhận định đây là một bài viết quá thâm thúy:
Sơn Trà không chỉ là “lá phổi xanh” mà còn phải là “cái dạ dày” để nuôi cơ thể. Hủy hoại Sơn Trà là một tội ác nhưng không đánh thức Sơn Trà thì phải chăng, cũng là tội lỗi?
Những ngày qua, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã vào Sơn Trà (Đà Nẵng) để trực tiếp nắm bắt tình hình, tìm giải pháp khả thi nhất cho bán đảo này. Việc làm của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam được dư luận hoan nghênh bởi nó xóa đi cái cung cách bàn giấy, duyệt dự án qua hồ sơ trong phòng máy lạnh.
Đặc biệt sau chuyến đi thị sát, Phó Thủ tướng đã yêu cầu tạm dừng mọi hoạt động trên tất cả các dự án trong 3 tháng đã thể hiện sự cẩn trọng trước khi quyết định một vấn đề hệ trọng, không chỉ liên quan đến bán đảo Sơn Trà, TP Đà Nẵng mà còn là sự quan tâm của cả nước.
Với tư cách một nhà báo, xin gửi tới Phó Thủ tướng mấy suy nghĩ của cá nhân tôi.
Trước khi bày tỏ quan điểm, xin kể lại 4 sự việc mà người viết bài này đã trực tiếp tham gia, tất nhiên cũng với tư cách nhà báo.
Việc thứ nhất là cách đây gần 20 năm, khi triển khai dự án cáp treo Yên Tử, các nhà đầu tư và chính quyền Quảng Ninh đã gặp phải rất nhiều ý kiến phản đối với đủ các lý do, nào là phá vỡ cảnh quan, hủy hoại di tích, động chạm cõi tâm linh. Song, câu hỏi đặt ra là không làm cáp treo thì làm gì để bảo vệ Đường Tùng và giải quyết nhu cầu chính đáng của hàng vạn phật tử, khách du lịch mỗi ngày, hàng trăm vạn du khách mỗi năm ngoài phương án xây dựng cáp treo? Giờ đây thì hiệu quả của tuyến cáp treo này như thế nào, chắc ai cũng biết. Đường Tùng đã “thoát chết” trong gang tấc, được bảo vệ.
Việc thứ hai, cùng thời điểm trên, có một dự án (hình như của Na Uy hay Đan Mạch) viện trợ để thay nước Hồ Tây “uống được”. Dự án này cũng vấp phải sự phản đối gay gắt, có Đại biểu Quốc hội còn cho rằng thay nước Hồ Tây “uống được” là vô nhân đạo vì “nước sinh hoạt còn thiếu” và cuối cùng thì Hồ Tây đến nay cơ bản đã “tử vong”, nước sinh hoạt thiếu vẫn thiếu.
Việc thứ ba là dự án thay nước hồ Gươm cũng không thực hiện được và giờ đây, Hồ Gươm thế nào chắc ai cũng biết. Số phận của Cụ Rùa truyền thuyết cuối cùng cũng “đã bỏ ta đi”.
Việc thứ tư, cách đây máy tháng, tôi có lên Fansipan, nóc nhà của Tổ quốc đã tận mắt chứng kiến sự hân hoan, kiêu hãnh và niềm hạnh phúc hiện lên trên gương mặt tất cả mọi người, nhất là các cụ già và em thơ. Một nhà thơ bạn vong niên của tôi ở tận miền cực Nam khi đứng dưới lá cờ ở nóc nhà Tổ quốc, gọi điện cho tôi đã bật khóc.
Tất nhiên, như hầu hết các dự án, khi triển khai, những nhà đầu tư đều vấp phải sự phản ứng quyết liệt và phải nhờ sự kiên quyết, công trình mới được thực hiện.
Từ những câu chuyện trên cho thấy vẫn là sự gian nan của bài toán muôn thủa: Bảo tồn – phát triển và ngược lại của ngành du lịch.
Trở lại với Sơn Trà, cá nhân tôi cho rằng cũng không ngoài “qui luật” này. Vấn đề ở đây là phải xử lý hài hòa giữa ba mối quan hệ: An ninh quốc phòng, môi trường và phát triển kinh tế.
Chúng ta không đổi an ninh quốc phòng hay môi trường lấy kinh tế nhưng cũng không coi nhẹ sự phát triển kinh tế bởi theo suy nghĩ của người viết bài này, với những gì đã và đang có, Đà Nẵng khó có con đường nào để lựa chọn ngoài du lịch và phát triển công nghệ cao. Trong khi thực trạng, phát triển công nghệ chưa hiệu quả.
Vì thế, việc khai thác Sơn Trà đối với Đà Nẵng là nhu cầu cần thiết để phát triển du lịch nhằm nâng cao đời sống cho người dân thành phố cũng như góp phần vào ngân sách quốc gia.
Sơn Trà có là kho vàng thì cũng phải khai thác, đưa vào sử dụng bởi nếu chôn dưới đất thì vàng khác gì đất dá. Có là “tiên nữ” thì cũng nên “đánh thức” để tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước chứ không thể để “người đẹp ngủ trong rừng”. Sơn Trà không chỉ là “lá phổi xanh” mà còn phải là “cái dạ dày” để nuôi cơ thể.
Tôi hi vọng rằng sau 3 tháng, Phó Thủ tướng sẽ cùng với các chuyên gia, nhà khoa học, nhà kinh tế tìm ra giải pháp tối ưu nhất để phát triển Sơn Trà một cách hài hòa, bền vững, hiệu quả.
Hủy hoại Sơn Trà là một tội ác nhưng không đánh thức Sơn Trà thì phải chăng, cũng là tội lỗi?
- Bùi Hoàng Tám -
Sơn Trà không chỉ là “lá phổi xanh” mà còn phải là “cái dạ dày” để nuôi cơ thể. Hủy hoại Sơn Trà là một tội ác nhưng không đánh thức Sơn Trà thì phải chăng, cũng là tội lỗi?
Những ngày qua, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã vào Sơn Trà (Đà Nẵng) để trực tiếp nắm bắt tình hình, tìm giải pháp khả thi nhất cho bán đảo này. Việc làm của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam được dư luận hoan nghênh bởi nó xóa đi cái cung cách bàn giấy, duyệt dự án qua hồ sơ trong phòng máy lạnh.
Đặc biệt sau chuyến đi thị sát, Phó Thủ tướng đã yêu cầu tạm dừng mọi hoạt động trên tất cả các dự án trong 3 tháng đã thể hiện sự cẩn trọng trước khi quyết định một vấn đề hệ trọng, không chỉ liên quan đến bán đảo Sơn Trà, TP Đà Nẵng mà còn là sự quan tâm của cả nước.
Với tư cách một nhà báo, xin gửi tới Phó Thủ tướng mấy suy nghĩ của cá nhân tôi.
Trước khi bày tỏ quan điểm, xin kể lại 4 sự việc mà người viết bài này đã trực tiếp tham gia, tất nhiên cũng với tư cách nhà báo.
Việc thứ nhất là cách đây gần 20 năm, khi triển khai dự án cáp treo Yên Tử, các nhà đầu tư và chính quyền Quảng Ninh đã gặp phải rất nhiều ý kiến phản đối với đủ các lý do, nào là phá vỡ cảnh quan, hủy hoại di tích, động chạm cõi tâm linh. Song, câu hỏi đặt ra là không làm cáp treo thì làm gì để bảo vệ Đường Tùng và giải quyết nhu cầu chính đáng của hàng vạn phật tử, khách du lịch mỗi ngày, hàng trăm vạn du khách mỗi năm ngoài phương án xây dựng cáp treo? Giờ đây thì hiệu quả của tuyến cáp treo này như thế nào, chắc ai cũng biết. Đường Tùng đã “thoát chết” trong gang tấc, được bảo vệ.
Việc thứ hai, cùng thời điểm trên, có một dự án (hình như của Na Uy hay Đan Mạch) viện trợ để thay nước Hồ Tây “uống được”. Dự án này cũng vấp phải sự phản đối gay gắt, có Đại biểu Quốc hội còn cho rằng thay nước Hồ Tây “uống được” là vô nhân đạo vì “nước sinh hoạt còn thiếu” và cuối cùng thì Hồ Tây đến nay cơ bản đã “tử vong”, nước sinh hoạt thiếu vẫn thiếu.
Việc thứ ba là dự án thay nước hồ Gươm cũng không thực hiện được và giờ đây, Hồ Gươm thế nào chắc ai cũng biết. Số phận của Cụ Rùa truyền thuyết cuối cùng cũng “đã bỏ ta đi”.
Việc thứ tư, cách đây máy tháng, tôi có lên Fansipan, nóc nhà của Tổ quốc đã tận mắt chứng kiến sự hân hoan, kiêu hãnh và niềm hạnh phúc hiện lên trên gương mặt tất cả mọi người, nhất là các cụ già và em thơ. Một nhà thơ bạn vong niên của tôi ở tận miền cực Nam khi đứng dưới lá cờ ở nóc nhà Tổ quốc, gọi điện cho tôi đã bật khóc.
Tất nhiên, như hầu hết các dự án, khi triển khai, những nhà đầu tư đều vấp phải sự phản ứng quyết liệt và phải nhờ sự kiên quyết, công trình mới được thực hiện.
Từ những câu chuyện trên cho thấy vẫn là sự gian nan của bài toán muôn thủa: Bảo tồn – phát triển và ngược lại của ngành du lịch.
Trở lại với Sơn Trà, cá nhân tôi cho rằng cũng không ngoài “qui luật” này. Vấn đề ở đây là phải xử lý hài hòa giữa ba mối quan hệ: An ninh quốc phòng, môi trường và phát triển kinh tế.
Chúng ta không đổi an ninh quốc phòng hay môi trường lấy kinh tế nhưng cũng không coi nhẹ sự phát triển kinh tế bởi theo suy nghĩ của người viết bài này, với những gì đã và đang có, Đà Nẵng khó có con đường nào để lựa chọn ngoài du lịch và phát triển công nghệ cao. Trong khi thực trạng, phát triển công nghệ chưa hiệu quả.
Vì thế, việc khai thác Sơn Trà đối với Đà Nẵng là nhu cầu cần thiết để phát triển du lịch nhằm nâng cao đời sống cho người dân thành phố cũng như góp phần vào ngân sách quốc gia.
Sơn Trà có là kho vàng thì cũng phải khai thác, đưa vào sử dụng bởi nếu chôn dưới đất thì vàng khác gì đất dá. Có là “tiên nữ” thì cũng nên “đánh thức” để tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước chứ không thể để “người đẹp ngủ trong rừng”. Sơn Trà không chỉ là “lá phổi xanh” mà còn phải là “cái dạ dày” để nuôi cơ thể.
Tôi hi vọng rằng sau 3 tháng, Phó Thủ tướng sẽ cùng với các chuyên gia, nhà khoa học, nhà kinh tế tìm ra giải pháp tối ưu nhất để phát triển Sơn Trà một cách hài hòa, bền vững, hiệu quả.
Hủy hoại Sơn Trà là một tội ác nhưng không đánh thức Sơn Trà thì phải chăng, cũng là tội lỗi?
- Bùi Hoàng Tám -
Hà Nội chịu tác động khí thải của 20 nhà máy nhiệt điện than
Tại buổi hội thảo về ô nhiễm không khí được tổ chức vào tối 5-6, hầu hết các chuyên gia đều cho rằng, ô nhiễm không khí tại Thủ đô Hà Nội đã ở mức báo động. Bên cạnh nhiều nguồn khí thải Thủ đô còn phải chịu tác động tiêu cực của khoảng 20 nhà máy nhiệt điện than ở phía Bắc.
Bà Nguyễn Thị Khanh – Giám đốc Trung tâm sáng tạo xanh (GreenID) cho biết, ô nhiễm không khí ở Hà Nội ngày càng gia tăng, đặc biệt vào giờ cao điểm. Chỉ trong năm 2016, Hà Nội đã có 8 đợt ô nhiễm không khí nghiêm trọng.
Các chỉ số bụi PM10 và PM2,5 đều vượt ngưỡng trung bình năm. Tại trạm quan trắc không khí đặt tại Đại sứ quán Mỹ (Láng Hạ - Hà Nội), chỉ số chất lượng không khí (AQI) và chỉ số bụi PM2,5 đều ở mức rất cao. Trong quý 1-2017, chỉ số bụi PM2,5 là 54,6 µg/m3, số ngày vượt quá quy chuẩn Việt Nam là 37 ngày (nếu so với WHO là 78 ngày).
Lí giải về nguồn gây ô nhiễm, GS Nghiêm Trung Dũng (Đại học Quốc gia Hà Nội) cho rằng, với một đô thị lớn như Hà Nội, khí thải từ giao thông phải được chú trọng hàng đầu, bên cạnh các yếu tố khác như hoạt động sản xuất công nghiệp, xây dựng, đốt rơm rạ...
Cùng với quá trình đô thị hoá, lượng phương tiện cá nhân tăng lên rất nhanh, tạo ra lượng lớn khí thải. Điều này lí giải vì sao trong giờ cao điểm, nồng độ ô nhiễm lại tăng cao đột biến. Hiện Hà Nội có gần 6 triệu xe máy, trong đó 2,5 triệu xe đã hết hạn sử dụng từ năm 2000. Những chiếc xe máy này hàng ngày vẫn xả khí thải ra môi trường gây ô nhiễm nghiêm trọng.
Mức độ ô nhiễm không khí ở Hà Nội cao gấp đôi TP Hồ Chí Minh
Bên cạnh các nguồn gây ô nhiễm nội tại, GS Dũng cũng lưu ý tới các nguồn xa, di chuyển về Hà Nội theo hướng gió. “Vào mùa đông, theo gió mùa đông bắc, bụi từ phía Bắc có thể di chuyển xuống Thủ đô làm gia tăng nồng độ ô nhiễm. Chưa kể, ở phía Bắc có tới gần 20 nhà máy nhiệt điện than đang hoạt động. Phần lớn các nhà máy này mới chỉ có thiết bị xử lí bụi, một số có khả năng xử lí SO2, chưa có nhà máy nào có thiết bị xử lí NOx" – GS Dũng nói thêm.
Đồng quan điểm, bà Khanh cho rằng, các nhà máy nhiệt điện than cũng góp phần làm gia tăng ô nhiễm không khí ở Hà Nội. Mặc dù quy mô dân số, số lượng phương tiện giao thông của Thủ đô ít hơn TP Hồ Chí Minh nhưng ô nhiễm không khí tại đây lại cao gấp đôi.
"Dù các nhà máy nhiệt điện cách xa Hà Nội xong bụi mịn PM2,5 có khả năng phát tán rất xa. Theo World Bank, 60% nguồn gây ô nhiễm của New Delhi (Ấn Độ) đến từ bên ngoài. Hà Nội cũng không ngoại lệ. Chúng ta cần hành động khẩn cấp để giảm phát thải từ nhiệt điện than, hướng tới sử dụng năng lượng tái tạo" – bà Khanh nói.
- Báo Xây Dựng -
Cháy 15ha rừng Tam Đảo tại địa điểm nhạy cảm
Khu vực xảy ra cháy rừng chính là địa điểm từng nằm trong quy hoạch xây dựng công viên nghĩa trang của Vĩnh Phúc đang gây xôn xao dư luận.
Vào khoảng 9h ngày 3/6, một vụ cháy rừng đã xảy ra tại khu vực núi Ngang, thôn trại Mái, xã Bồ Lý, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc.
Ngọn lửa lớn lại bùng phát trong điều kiện nắng nóng khiến công tác chữa cháy gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Ngọn lửa nhanh chóng lan ra trên diện rộng và đã làm cho 15 ha rừng với cây trồng chủ yếu là bạch đàn nơi đây bị thiêu rụi.
Ngay khi phát hiện đám cháy, huyện Tam Đảo cùng các lực lượng chức năng trong tỉnh đã nhanh chóng huy động lực lượng chữa cháy ở cơ sở và nhân dân trên địa bàn, các chiến sỹ của các đơn vị Z195, C20, Trường Tăng thiết giáp, Lữ đoàn 204 tổ chức chữa cháy.
Do địa bàn đồi dốc, nắng nóng, ngọn lửa lan rộng, công tác chữa cháy gặp nhiều khó khăn. Đến 16h cùng ngày, vụ cháy mới cơ bản được dập tắt.
Ông Nguyễn Văn Trì, Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc có mặt tại khu vực rừng cháy và chỉ đạo công tác chữa cháy rừng đã đánh giá cao việc xử lý nhanh, kịp thời của huyện Tam Đảo, các lực lượng chức năng, các cơ quan, đơn vị quân đội đóng trên địa bàn.
Về nghi vấn nhiều người đặt ra phải chăng có người cố tình đốt rừng phòng hộ, Nguyễn Văn Trì, Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc trả lời báo chí khẳng định: "Nghi vấn thì ai cũng có quyền, nhưng đúng hay không thì chưa thể khẳng định được bởi phải đợi cơ quan chức năng điều tra làm rõ".
Ông Trì cũng cho hay, "chỉ là đám cháy cây tạp", ông đã yêu cầu huyện Tam Đảo phối hợp với các lực lượng xử lý triệt để vụ cháy, đồng thời cảnh giác với nguy cơ phát cháy trở lại.
Trùng hợp lạ
Như báo Đất Việt đã thông tin trước đó, khu vực núi Ngang, thôn Trại Mái, xã Bồ Lý, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc chính là địa điểm nằm trong quy hoạch xây dựng công viên nghĩa trang.
Dự án do Công ty CP Đầu tư Bình Minh Xanh làm chủ đầu tư trên diện tích 105,5 ha, lấn chiếm sang cả khu vực rừng phòng hộ mà Nhà nước đã giao các hộ gia đình, cá nhân nhận trồng, chăm sóc và bảo vệ từ năm 2002.
Mặc dù còn nhiều ý kiến bày tỏ sự không đồng tình với dự án này, thế nhưng mới đây, trong văn bản gửi Thủ tướng Chính phủ, ông Vũ Chí Giang - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc cho rằng:
Việc xây dựng công viên nghĩa trang tại khu vực núi Ngang là phù hợp với phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ về quy hoạch chung xây dựng đô thị Vĩnh Phúc đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Trong quy hoạch này, Vĩnh Phúc có 2 nghĩa trang được quy hoạch tại xã Bồ Lý, huyện Tam Đảo và xã Trung Mỹ, huyện Bình Xuyên với quy mô mỗi khu khoảng hơn 100 ha.
Trong khi trước đó, UBND tỉnh Vĩnh Phúc đã đề nghị Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc cho dừng chủ trương nghiên cứu triển khai quy hoạch xây dựng hai khu nghĩa trang tập trung theo Quy hoạch chung xây dựng đô thị Vĩnh Phúc.
Giải thích về việc này, UBND tỉnh Vĩnh Phúc cho biết, sở dĩ tỉnh này làm như vậy là để lường trước những suy diễn, bình luận phức tạp qua báo chí và để chuẩn bị tốt các điều kiện cần thiết cho việc nghiên cứu các khu vực nghĩa trang tập trung của tỉnh.
Người dân không đồng thuận với chủ trương làm nghĩa trang tại Tam Đảo
Đối chiếu với quy định của Bộ NN&PTNT, tỉnh Vĩnh Phúc nhận thấy khu vực này không đủ điều kiện, tiêu chí để quy định là rừng phòng hộ.
Trong khi đó, trao đổi với Đất Việt ngày 19/5 về vấn đề này, GS.TSKH Nguyễn Ngọc Lung, Viện Quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng cho biết, ông cảm thấy rất bất bình khi nghe lãnh đạo Vĩnh Phúc cho rằng, đối chiếu với quy định của Bộ NN&PTNT, nhận thấy khu vực làm nghĩa trang không đủ điều kiện, tiêu chí để quy định là rừng phòng hộ.
Chính vì thế hiện nay tỉnh Vĩnh Phúc đang làm các thủ tục để điều chỉnh quy hoạch khu vực này ra khỏi diện tích rừng phòng hộ để phục vụ cho việc phát triển kinh tế-xã hội chung của địa phương.
"Tôi là người trước đây phụ trách quản lý toàn bộ việc này, tôi cũng có khuyết điểm khi phê duyệt cho các tỉnh mà không có cán bộ đi thẩm tra tận nơi, khoanh vùng rừng phòng hộ là khoanh trên bản đồ địa hình.
Tỉnh Vĩnh Phúc khẳng định như vậy thì chứng minh đi, chứng minh bằng các con số thẩm tra cụ thể.
Ở đây thấy rõ, khi được xác nhận là rừng phòng hộ thì tỉnh bằng lòng nhưng khi muốn làm dự án thì tìm lý lẽ chuyển nó ra khỏi vùng này, đó là các lý do không chính đáng'', TSKH Nguyễn Ngọc Lung nhận định.
Nếu Vĩnh Phúc cứ ngang nhiên làm, thay đổi quy hoạch theo dự án, theo ông Lung, cứ căn cứ theo Luật bảo vệ phát triển rừng mà làm, nếu lấy trên 50ha rừng trở lên là phải hỏi ý kiến Quốc hội, đừng dùng áp lực chính quyền xử lý.
- Tuổi Trẻ -
Mặt đường Hà Nội nóng gần 60 độ C, dân chui hầm trốn nóng
Theo ghi nhận, do nhiệt độ ngoài trời quá nóng nên hầu hết mọi người đều hạn chế ra đường và chọn cho mình những nơi bóng mát hay trong nhà để tránh nắng nóng
Chúng tôi thử dùng một chiếc nhiệt kế để đo nhiệt độ ngoài trời và kết quả đo được tại đường Nguyễn Trãi, Thanh Xuân lúc 12g30 khoảng 42 độ C và nhiệt độ mặt đường lên gần 60 độ C.
Nắng nóng cộng thêm trời không một gợn mây khiến thời tiết Hà Nội hôm nay càng gay gắt hơn.
Mặt đường các tuyến phố đều có cảm giác như bốc hơi, bỏng rát, ai đi đường đều phải căng mình với cái gió khô nóng từ mắt đường táp vào mặt.
Nhiều người lao động tại tuyến đường Nguyễn Xiển đã phải xuống hầm đi bộ để nằm nghỉ để tránh nắng.
Họ cho hay nhiều ngày nay do thời tiết tại Hà Nội nắng nóng nên họ đã phải tranh thủ xuống đây để chợp mắt trước giờ làm chiều.
Người lao động nằm la liệt dưới một số đường hầm đi bộ - Ảnh: NAM TRẦN
Một người đàn ông cởi trần nằm ngủ dưới hầm đi bộ trên đường Nguyễn Xiển, Thanh Trì - Ảnh: NAM TRẦN
Bất kể chỗ nào bóng mát cũng có thể làm chỗ nghỉ tạm- Ảnh: NAM TRẦN
Các quán nước ven đường đông khách giải nhiệt - Ảnh: NAM TRẦN
Một nhân viên của một hiệu sách trên đường Xuân Thủy, Cầu Giấy kéo tấm rèm để tránh nắng khi mặt trời chuyển hướng - Ảnh: NAM TRẦN
Nắng nóng cộng thêm trời không một bóng mây nào càng khiến thời tiết gay gắt hơn, các tuyến đường mọi người đều hạn chế ra ngoài - Ảnh: NAM TRẦN
Theo Trung tâm dự báo khí tượng thủy văn trung ương dự báo từ ngày 3 đến ngày 5-6, do tác động của vùng áp thấp nóng phía Tây kết hợp với hiệu ứng gió phơn hoạt động mạnh nên nắng nóng gay gắt sẽ tiếp tục xảy ra ở Bắc Bộ và các tỉnh miền Trung từ Thanh Hóa đến Phú Yên với nhiệt độ cao nhất trong ngày phổ biến 37-40 độ C, có nơi trên 41 độ.
Thời gian có nhiệt độ trên 35 độ từ 10-17 giờ. Cấp độ rủi ro thiên tai: cấp 1. Từ ngày 06/06 nắng nóng sẽ dịu dần.
Tại Hà Nội, từ ngày 3 đến ngày 5-6, trời nắng nóng gay gắt với nhiệt độ cao nhất trong ngày từ 39 - 41 độ C.
Thời gian có nhiệt độ trên 35 độ C kéo dài từ 10-18 giờ. Nhiệt độ thấp nhất trong ngày cũng lên từ 30-33 độ C. Đến ngày 6-6 nắng nóng mới dịu dần.
-Tuổi trẻ-
Hà nội chuẩn bị chặt hạ 1300 cây xanh phố Phạm Văn Đồng
Chịu trận để phát triển
Ô nhiễm nguồn nước xuất phát từ việc các ao, hồ, sông tiếp nhận nhiều loại nguồn thải từ nông nghiệp, công nghiệp và sinh hoạt. Trong khi đó, mức đầu tư cho hệ thống xử lý nước thải chưa đáp ứng yêu cầu.
Nước thải sinh hoạt chiếm trên 30% tổng lượng thải trực tiếp ra các sông hồ hay kênh rạch dẫn ra sông. Theo số liệu tính toán của cơ quan môi trường cho thấy Đông Nam bộ và Đồng bằng sông Hồng là 2 vùng tập trung nhiều lượng nước thải sinh hoạt nhất cả nước.
Vùng Đông Nam bộ với toàn bộ các tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nơi tập trung các khu công nghiệp (KCN) lớn, là vùng có lượng phát sinh nước thải công nghiệp lớn nhất cả nước. Số lượng KCN có hệ thống xử lý nước thải vẫn đang ở mức trung bình (50-60%), hơn nữa, 50% trong số đó vẫn chưa hoạt động hiệu quả.
Theo các nghiên cứu tác động môi trường của cơ quan Tổng cục Môi trường cho thấy: ở ngành công nghiệp dệt may, ngành công nghiệp giấy và bột giấy, nước thải thường có độ pH trung bình từ 9-11; chỉ số nhu cầu ôxy sinh hoá (BOD: Biochemical oxygen Demand - là lượng oxy cần thiết cung cấp cho vi sinh vật để oxi hóa các chất hữu cơ), nhu cầu ôxy hoá học (COD: Chemical oxygen Demand - là khối lượng oxy cần tiêu hao trên 1 lít nước thải) có thể lên đến 700mg/1 và 2.500mg/1; hàm lượng chất rắn lơ lửng... cao gấp nhiều lần giới hạn cho phép.
Hàm lượng nước thải của các ngành này có chứa xyanua (CN-) vượt đến 84 lần, H2S vượt 4,2 lần, hàm lượng NH3 vượt 84 lần tiêu chuẩn cho phép nên đã gây ô nhiễm nặng nề các nguồn nước mặt trong vùng dân cư.
Bên cạnh những nguồn thải nêu trên, nước thải nông nghiệp cũng là vấn đề đáng quan tâm hiện nay. Đó là nguyên nhân chính gây ảnh hưởng đến nguồn nước tại những địa phương có nền kinh tế nông nghiệp phát triển mạnh như vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Nước thải từ hoạt động nông nghiệp có chứa hóa chất bảo vệ thực vật hay thuốc trừ sâu là thành phần độc hại cho môi trường và sức khỏe con người. Đặc biệt, các khu vực này, đời sống dân cư vẫn gắn với nguồn nước sông, dùng làm nước sinh hoạt hay sử dụng để nuôi trồng thủy sản.
Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường nước như sự gia tăng dân số, mặt trái của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ sở hạ tầng yếu kém, lạc hậu: nhận thức của người dân về vấn đề môi trường còn chưa cao…
Đáng chú ý là sự bất cập trong hoạt động quản lý, bảo vệ môi trường. Nhận thức của nhiều cấp chính quyền, cơ quan quản lý, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm về nhiệm vụ bảo vệ môi trường nước chưa sâu sắc và đầy đủ; chưa thấy rõ ô nhiễm môi trường nước là loại ô nhiễm gây nguy hiểm trực tiếp, hàng ngày và khó khắc phục đối với đời sống con người cũng như sự phát triển bền vững của đất nước.
Bên cạnh đó, các quy định về quản lý và bảo vệ môi trường nước còn thiếu, cơ chế phân công và phối hợp giữa các cơ quan, các ngành và địa phương chưa đồng bộ, còn chồng chéo, chưa quy định trách nhiệm rõ ràng.
Chưa có chiến lược, quy hoạch khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước theo lưu vực và các vùng lãnh thổ lớn. Chưa có các quy định hợp lý trong việc đóng góp tài chính để quản lý và bảo vệ môi trường nước gây nên tình trạng thiếu hụt tài chính, thu không đủ chi cho bảo vệ môi trường nước.
- PL+ -
Vùng tệp đính kèm
Nổ lớn tại lò vôi Formosa
Sự cố xảy ra vào khoảng 21h ngày 30/5 tại Công ty TNHH gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh (FHS). Theo ghi nhận, vụ nổ xảy ra tại một thiết bị hun khói của lò vôi.
Một số người dân sống cạnh FHS kể sau khi nghe tiếng nổ lớn, họ chạy ra thì thấy phía trong khu công nghiệp có cột khói lớn bốc lên. Dù chưa biết chuyện gì xảy ra, họ rất lo lắng về độ an toàn trong khu vực.
Một lãnh đạo địa phương cho hay sau khi nhận thông tin đã có mặt tại hiện trường vụ nổ để kiểm tra, xác minh. Vụ nổ xảy ra trong quá trình vận hành lò cao số 1, có thể từ thiết bị hun khói của lò vôi và không gây ảnh hướng lớn đến dây chuyền vận hành lò cao.
Trước đó, ngày 29/5 FHS thực hiện đốt lửa khởi động lò cao sau báo cáo đã khắc phục được 52/53 sự cố. Đến nửa đêm, khu vực xảy ra vụ nổ vẫn xuất hiện những bụi khói cao và nhiều tiếng nổ nhỏ.
Chưa có thông tin về thiệt hại do vụ nổ.
Trước đó, ngày 29/5 FHS thực hiện đốt lửa khởi động lò cao sau báo cáo đã khắc phục được 52/53 sự cố. Đến nửa đêm, khu vực xảy ra vụ nổ vẫn xuất hiện những bụi khói cao và nhiều tiếng nổ nhỏ.
Chưa có thông tin về thiệt hại do vụ nổ.
Bất chấp mọi phản đối, Formosa cho vận hành lò cao
Vào 22:00 tối nay đến 6:00 sáng mai 30.6, FMS sẽ bắt đầu tiến hành đổi khí tại khu vực tháp đốt xả khí lò cao. Nhằm đảm bảo an toàn và tránh sự cố khi lò cao thử máy tiến hành rót thép lỏng; chiều nay tất cả nhân viên trong công ty đã được thông báo phong tỏa một số khu vực – bắt đầu từ 29.5 đến 30.8.2017.
Trước đó, Công an Hà Tĩnh và Bộ đội Biên phòng tỉnh đã làm việc với lãnh đạo FHS để đảm bảo an ninh trật tự trước và sau khi tiến hành thử nghệm!
Dọc bờ biển miền Trung, nhiều nơi ngư dân vẫn còn phơi lưới. Tại Quảng Bình, có làng nhất định không chịu nhận đền bù, chỉ muốn biển sạch để ra khơi. Ngay Hà Tĩnh, nhiều người không còn ăn cá; các dịch vụ đi theo du lịch cũng ế ẩm...vv…hàng trăm nghìn hộ dân mất nguồn sinh kế đã phải bổ sung vô đội quân làm thuê tỏa đi tứ xứ…Chính quyền lúng túng trong các phản ứng của người dân, tăng cường đàn áp, bắt bớ…vv… Một năm, cái xương FMS vẫn nằm hóc ngay cổ Việt Nam!
- Như vậy, FMS chính thức vận hành thử nghiệm lò cao số 1 bất chấp mọi phản đối đòi cuốn xéo!
- Lê Nguyễn Hương Trà -
Ống Trung Quốc dẫn nước ăn TP.HCM: Sao không chọn Châu Âu?
Vấn đề chính là nhà thầu cụ thể của Trung Quốc
Mới đây, UBND TP.HCM đang chỉ đạo Sở KHCN phối hợp với Sở GTVT, Sở Y tế, Tổng Công ty TNHH MTV Cấp nước Sài Gòn (SAWACO), Công ty Cổ phần hạ tầng nước Sài Gòn… làm rõ có hay không ảnh hưởng chất lượng nước sạch khi sử dụng các loại ống gang.
Trước đó, tháng 6/2016, ông Trương Văn Hải - nguyên cán bộ SAWACO, gửi đơn lên Thành ủy, HĐND, UBND TP.HCM, nói rõ SAWACO sẽ đầu tư phát triển hơn 260 km mạng đường ống cấp 1,2 để tiếp nhận các nguồn nước sạch, sử dụng ống gang dẻo do các công ty Trung Quốc sản xuất như Xinxing, Sun.
Đặc biệt, ống gang dẻo Trung Quốc được đúc từ những phế phẩm của PLA (vật liệu phân hủy sinh học), các sản phẩm bom mìn hay những vũ khí hết hạn sử dụng. Do vậy, ống gang dẻo Xinxing được chào bán ở Việt Nam rẻ hơn nhiều so với các sản phẩm khác và có thể bán với mọi giá.
Là người giảng dạy trong bộ môn Cấp thoát nước, là chuyên gia giao thông công chính trong TPHCM, trao đổi với Đất Việt, ngày 20/5, TS Phạm Sanh cho biết: "Thông tin cá nhân nguyên cán bộ SAWACO phản ánh lên các cấp lãnh đạo cao nhất của thành phố gần cả năm, bây giờ UBND TP mới có văn bản chỉ đạo các Sở Ban Ngành và SAWACO làm rõ chất lượng nước khi sử dụng ống gang dẻo của một số nhà sản xuất Trung Quốc.
Theo tôi đây là việc làm hơi chậm trong xử lý thông tin về hiệu quả đầu tư công, về tác động ảnh hưởng sức khỏe người dân, trong lúc cả nước và TP HCM không thiếu chuyên gia về cấp nước đô thị. Thật ra thông tin này, về khoa học và thực tế, chưa có độ chính xác cao cho lắm".
Bên cạnh đó, theo ông Sanh, đường ống cấp nước bằng gang ra đời rất sớm, từ giữa thế kỷ 15, nhờ cường độ cao và sử dụng bền, các vật liệu khác khó cạnh tranh. Đến năm 1948, thế giới bắt đầu dùng ống gang dẻo, phát huy thêm các ưu điểm và khắc phục khuyết điểm của ống gang thường (trọng lượng bản thân, địa chất phức tạp, tải trọng ngoài lớn...).
Sau này, dù có sự xuất hiện của ống PVC, ống HDPE, ống composit..., ống gang dẻo vẫn giữ được gíá trị của nó, đặc biệt đường ống cấp nước đô thị có đường kính lớn. Ống gang dẻo, nếu được thi công và chống ăn mòn tốt có thể có tuổi thọ từ 50 đến trên 100 năm.
"Giống như các loại ống bằng kim loại, ống gang dẻo vẫn bị ăn mòn cả bên ngoài lẫn bên trong. Tuy mức độ ăn mòn rất nhỏ (so với tuổi thọ công trình), người ta vẫn gia cố chống ăn mòn ống cả bên ngoài và bên trong. Bên trong ống, thường dùng vữa xi măng hoặc PUR (Polyurethane).
Ống gang dẻo có thể làm từ phế liệu hoặc tái chế. Đây cũng là một ưu điểm về thân thiện môi trường, giảm phát khí thải gây hiệu ứng nhà kính.
Do vật liệu gang dẻo sử dụng làm ống cấp nước đã có từ lâu tại hầu hết các thành phố trên thế giới, nên hiện nay có khá nhiều tiêu chuẩn về chất lượng vật liệu, thi công lắp đặt, bọc trám ống và thí nghiệm (EN 15655:2009, ISO 2531:2009, ANSI/AWWA/ASTM...). Cả Việt Nam cũng có TCVN 10177:2013.
Như vậy, cần phân biệt rõ 3 khái niệm: công nghệ ống gang dẻo, ống gang dẻo của Trung Quốc và ống gang dẻo của nhà thầu hay nhà sản xuất Trung Quốc.
Về công nghệ hay vật liệu gang dẻo thì không có gì phải tranh luận, nếu ảnh hưởng sức khỏe hay xấu môi trường thì thế giới đã có nhiều thông tin rồi. Nói ống gang dẻo của Trung Quốc cũng quá chung chung. Vấn đề còn lại chính là nhà thầu cụ thể của Trung Quốc.
Đúng ra là cách tổ chức thực hiện đấu thầu quốc tế lựa chọn nhà thầu ra sao, rồi năng lực và trách nhiệm quản lý hợp đồng của chủ đầu tư thế nào?", ông Sanh nhấn mạnh.
Không chỉ TP.HCM
Ở góc độ khác, theo ông Sanh, hệ thống cấp nước đô thị rất quan trọng, không những đáp ứng yêu cầu sử dụng nước sạch cho người dân và doanh nghiệp, còn phải đảm bảo yêu cầu vệ sinh, sức khỏe, môi trường, chữa cháy, thậm chí an ninh quốc phòng.
Dùng loại ống gì đều phải tính toán so sánh, vì tuổi thọ cả trăm năm và chi phí đầu tư bảo trì quá lớn, không hề đơn giản.
"Không ai dám sử dụng các vật liệu nguy hại làm đường ống dẫn nước gây nguy hiểm cho sức khỏe người dân khi sử dụng lâu dài (trực tiếp hay gián tiếp). Phải dựa vào tiêu chuẩn kỹ thuật, thông tin thế giới và các cơ sở khoa học lẫn thực tiển để lựa chọn đúng công nghệ, đúng nhà thầu có uy tín và kinh nghiệm.
Nhất là phía Việt Nam, từ cơ quan quản lý nhà nước đến cán bộ quản lý dự án cụ thể, phải có trách nhiệm trước dân", ông Sanh cho biết thêm.
Trước thực trạng không chỉ có TPHCM, đường ống nước sông Đà Hà Nội đến nay cũng đang chuẩn bị được cung cấp bởi nhà thầu Xinxing, vị chuyên gia trên phân tích: "Theo tôi, cứ làm đúng luật Đấu thầu và các quy định pháp luật khác có liên quan. Nếu Nhà thầu Trung Quốc đủ năng lực, có các điều kiện về kỹ thuật và về giá tốt nhất, thì họ trúng thầu không có gì ngạc nhiên.
- Đất Việt -
Vùng tệp đính kèm
Kiên Giang: Hải sản chết lan rộng
Tình trạng hải sản chết hàng loạt đã lan từ phường Tô Châu (thị xã Hà Tiên) đến xã Bình An (huyện Kiên Lương), ông Nguyễn Văn Tâm - giám đốc Sở Nông nghiệp tỉnh Kiên Giang - xác nhận sáng 11-5.
Đi dọc theo quốc lộ 80 ven biển từ sáng sớm, khi thủy triều chưa lên, phóng viên Tuổi Trẻ ghi nhận bãi biển la liệt xác nghêu trắng xóa. Những sạp hàng thường ngày buôn bán hải sản dọc theo quốc lộ 80 hiện đã giảm hẳn. Nhiều sạp hàng bỏ trống.
Anh Phan Văn Đắc, đang nuôi 15ha nghêu tại xã Dương Hòa, huyện Kiên Lương, rầu rĩ dùng cào gom xác nghêu đổ thành từng đống. “Con nghêu thường sống dưới mặt đất cách 5-10 phân, nó ngoi lên nghĩa là đã chết”, anh Đắc giải thích.
Những con nghêu được bới lên từ dưới mặt đất đã thối rữa, mùi tanh xộc lên khắp cả bãi biển. Anh Đắc cùng vợ và hai người làm mướn phải gom xác nghêu khi nước còn chưa lên để tránh ô nhiễm cho cả vùng nuôi.
Những con nghêu giống mới to bằng đầu đũa anh Đắc vừa thả cách đây hai tháng cũng chung số phận. Cầm trên tay bao nghêu chết hơn 10kg, anh Đắc than: “Tôi mới thả hơn 4 tấn, hết 1,6 tỉ đồng. Lúc mua 500 con/kg. Thường khoảng 60con/kg là bắt đầu thu hoạch. Giờ chưa kịp lớn đã chết”.
Không chỉ nghêu, xác cá cũng dạt vào bờ, chủ yếu là các loại cá nhỏ.
Anh Chung Sỹ, nuôi 4 lồng với 1.200 con cá bống mú, 500 con cá bóp ở ấp Hòn Heo, xã Dương Hòa, chỉ mặt biển nói: “Bình thường màu nước biển không như vậy đâu, trong xanh lắm. Cả tuần nay mới bắt đầu đổi màu xanh đục, có pha vàng nhạt kiểu lạ như thế này”.
Các lồng cá của anh Sỹ nuôi ngoài biển, cách bờ hơn 2km, đã bị chết phân nửa trong hai ngày 8 - 9-5. “Số còn lại đang có dấu hiệu bỏ ăn”, anh Sỹ nói thêm.
Anh Chung Văn Điểm, nhà sát bờ biển ấp Hòn Heo, cũng nói: “Ở đây từ nhỏ đến giờ, chưa bao giờ thấy màu nước biển lạ như vậy. Khu vực này trước đây cá vẫn nhiều, sau đợt cá chết mấy ngày giờ không còn thấy bóng con cá nào”.
Ông Đặng Trung Tín - chủ tịch UBND xã Thuận Yên, thị xã Hà Tiên, cho biết hơn một nửa hộ dân xã ông sống dựa vào việc nuôi trồng thủy sản. Khi xảy ra sự cố, xã đã khuyến cáo người dân hạn chế lấy nước vào ao, vuông để nuôi trồng thủy sản. Đồng thời yêu cầu người dân không tiêu thụ, buôn bán số lượng hải sản đã chết.
Ông Lý Thái Hưng - trưởng Phòng kinh tế thị xã Hà Tiên - thì cho biết chưa phát hiện tình trạng thủy sản bị ảnh hưởng tại các khu vực du lịch của thị xã.
“Tuy nhiên, thị xã cũng đã khuyến cáo các sạp bán thủy hải sản không bán nghêu để đảm bảo sức khỏe cho người tiêu dùng”, ông Hưng nói thêm.
Trao đổi với Tuổi Trẻ, ông Phạm Vũ Hồng - chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang - cho biết đã cử các cơ quan chuyên môn xuống nắm tình hình, cũng như chỉ đạo Sở Tài nguyên môi trường tiến hành lấy mẩu gửi kiểm nghiệm để xác định nguyên nhân gây ra hiện tượng trên, sẽ thông báo ngay khi có kết quả.
- TTO -
Posco được bật đèn xanh xây nhà máy nhiệt điện than thứ hai tại Việt Nam
Trang Pulse News (Hàn Quốc) vừa đưa tin công ty năng lượng Posco Energy của nước này vừa được Chính phủ Việt Nam chấp thuận về nguyên tắc để xây nhà máy nhiệt điện than thứ hai có vốn đầu tư 2,5 tỷ USD tại đây
Nhà máy nhiệt điện Quỳnh Lập 2 sẽ được xây dựng tại xã Quỳnh Lập, thị xã Hoàng Mai, Nghệ An trên diện tích đất 171ha và khoảng 37ha mặt nước. Nhà máy sẽ gồm 2 tổ máy với tổng công suất 1.200MW.
Dự án sẽ được đầu tư theo hình thức BOT và chuyển giao quyền sở hữu cho phía Việt Nam sau 25 năm vận hành. Dự kiến nhà máy sẽ được khởi công năm 2022 sau khi tiến hành nghiên cứu khả thi và ký các thỏa thuận liên quan, và hoàn thành vào năm 2026.
Đây sẽ là dự án điện thứ hai tại Việt Nam của Posco sau Dự án nhiệt điện Mông Dương 2 tại Quảng Ninh, cũng là nhà máy nhiệt điện đốt than, có tổng vốn 2,1 tỷ USD.
Tại buổi làm việc với lãnh đạo tỉnh Nghệ An tháng 10/2015, Posco chi biết tỷ lệ vốn chủ sở hữu và vốn vay của dự án là 25/75%. Khoản vay sẽ được chủ đầu tư vay từ Quỹ tín dụng xuất khẩu trực tiếp và vay tín dụng xuất khẩu có bảo lãnh từ Ngân hàng Korea Eximbank và Tập đoàn tài chính Hàn Quốc đảm bảo, với thời gian vay 15 năm.
Trước đó, nhà máy nhiệt điện Quỳnh Lập 1 tại Nghệ An được khởi công đầu tháng 10/2015 với tổng mức đầu tư 2,2 tỷ USD. Dự án do Vinacomin làm chủ đầu tư, dự kiến sẽ đi vào hoạt động trong năm 2020.
- Bizlive -
Nghệ An: Chất thải màu đen dạt vào bãi biển
Đơn vị nạo vét cảng gang thép Nghi Sơn (Thanh Hóa) đổ vật liệu xuống bến container gần vùng biển giáp ranh Nghệ An, khiến nước biển đổi màu và xuất hiện chất thải trên bãi biển xã Quỳnh Lập.
Những ngày gần đây, chất thải màu đen từ ngoài khơi liên tục dạt vào bãi biển các xóm Tân Minh, Đồng Minh và Đồng Thanh thuộc xã Quỳnh Lập, thị xã Hoàng Mai (Nghệ An).
"Chất thải gồm những hạt to như vỏ trấu hoặc hạt ngô, dạng xỉ đen", ông Mai Văn Khư (Xóm trưởng Đồng Minh, xã Quỳnh Lập) nói và cho biết hiện tượng này cũng xuất hiện vào năm ngoái.
Theo một số người dân địa phương, vừa qua trong khi đi biển họ đã chứng kiến 3 tàu công suất lớn liên tục đổ thải bùn xuống vùng biển giáp ranh Nghệ An - Thanh Hoá. "Cách bờ biển Quỳnh Lập khoảng 100 m, nhiều hôm chúng tôi thấy xuất hiện những vệt nước đục không mùi, không có hiện tượng cá chết. Phía trong bờ là chất xỉ màu đen", ông Hoàng Văn Khuê (xã Quỳnh Lập) nói và thông tin thêm, các tàu xả thải xuất phát từ khu kinh tế Nghi Sơn (Thanh Hóa).
Tại cảng Nghi Sơn, ông Nguyễn Văn Sỹ, đội trưởng nhóm tàu chở chất thải cho biết, đơn vị được Công ty gang thép Nghi Sơn thuê nạo vét luồng lạch tại 3 bến, mỗi bến có độ sâu khoảng 13 m. Hàng ngày đội tàu này hút cát tại luồng, sau đó chạy khoảng 6 km để đổ xuống bến container nằm cách ranh giới vùng biển Thanh Hoá - Nghệ An khoảng 800 m.
"Có thể khi tàu đổ cát xuống bến container đã làm nước biển bị đục, hoặc do lẫn trong cát có một số bụi than. Chúng tôi chỉ hút cát từ luồng chở tới bến container, tuyệt đối không đổ hoá chất hay vật liệu nào khác", ông Sỹ nói.
Công ty gang thép Nghi Sơn cho biết, trong ngày 11/5 đơn vị đã ngừng thi công hạng mục nạo vét luồng vào cảng và đổ vật liệu xuống bến container. Động thái này được thực hiện sau khi UBND thị xã Hoàng Mai (Nghệ An) có văn bản gửi các cơ quan chức năng 2 tỉnh, đề nghị làm rõ thông tin tàu xả thải bùn làm nước biển đổi màu.
"Việc nạo vét của chúng tôi đã có báo cáo đánh giá tác động môi trường được UBND tỉnh Thanh Hoá phê duyệt, vì vậy đơn vị mong cơ quan chức năng sớm làm rõ vấn đề", ông Trịnh Thế Dũng (Phó giám đốc công ty gang thép Nghi Sơn) nói.
Cùng ngày, UBND tỉnh Nghệ An cho biết đã chỉ đạo cơ quan chức năng lấy mẫu kiểm tra nước biển và chất thải ở khu vực nêu trên, hiện đang đợi kết quả để gửi cho UBND tỉnh Thanh Hóa và các bên liên quan nhằm phối hợp quản lý vùng biển giáp ranh.
- VNExpress -
Kiên Giang: Cá biển chết hàng loạt chưa rõ nguyên nhân
Ngày 9-5, ông Ong Văn Lình, Phó chủ tịch UBND xã Dương Hòa, huyện Kiên Lương (Kiên Giang) cho biết, trong 3 ngày qua, tại một số khu vực bờ biển thuộc địa bàn xã xuất hiện hàng loạt cá biển chết chưa rõ nguyên nhân.
Khu vực biển có cá chết nhiều nhất trải dài khoảng 10 km thuộc các ấp: Tà Săng, Mũi Dừa, Bãi Chà Và thuộc địa bàn xã Dương Hòa.
Ngoài một số loại cá sinh sống ở tầng mặt nước như cá bống, cá sơn, cá suốt... thì một số loài sống ở tầng đáy như lịch, tôm tích, cua, ghẹ... cũng bị chết. Thậm chí một số loài như nghêu, sò lụa... sống vùi dưới lớp đất, cát cũng bị chết.
Chị Dương Mỹ Linh, ngụ tổ 5, ấp Mũi Dừa cho biết, số lượng cá chết nhiều nhất khoảng 13h30 ngày 8-5, nổi trắng cả mặt nước, một số do sóng đánh trôi dạt vào bờ, mùi hôi thối bốc lên nồng nặc, ảnh hưởng đến đời sống của nhiều nhà dân ven biển ở khu vực này.
Ông Dương Minh Nghĩa cùng ấp thì cho biết tình trạng cá chết nhiều như vậy là rất bất thường, lần đầu tiên xảy ra ở khu vực này. Khi cá chết, một số hộ dân còn vớt những loại cá lớn để ăn và đem bán.
Ông Ong Văn Lình, Phó chủ tịch UBND xã Dương Hòa cho biết, ngay sau khi nhận được tin báo cửa người dân, xã đã cử cán bộ chuyên môn xuống hiện trường nắm bắt vụ việc, đồng thời báo cáo huyện.
Xã cũng chỉ đạo các đoàn thể, các ấp vận động bà con không vớt cá để ăn hoặc đem bán, tránh nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe, trong khi chờ kết luận của ngành chức năng.
Được biết cũng trong chiều qua 8-5, một số ngành liên quan của huyện Kiên Lương và tỉnh Kiên Giang đã xuống lấy mẫu nước tại khu vục cá chết để phân tích tìm hiểu nguyên nhân.
- TTO -
Xã cũng chỉ đạo các đoàn thể, các ấp vận động bà con không vớt cá để ăn hoặc đem bán, tránh nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe, trong khi chờ kết luận của ngành chức năng.
Được biết cũng trong chiều qua 8-5, một số ngành liên quan của huyện Kiên Lương và tỉnh Kiên Giang đã xuống lấy mẫu nước tại khu vục cá chết để phân tích tìm hiểu nguyên nhân.
- TTO -
Vùng tệp đính kèm
Quảng Ngãi: Thêm nhà máy giấy phá rừng, xả thải ra biển
UBND tỉnh Quảng Ngãi mới đây đã chấp nhận thu hồi gần 50ha rừng dừa nước ở xã Bình Phước (huyện Bình Sơn) để xây hồ chứa nước cho nhà máy bột- giấy VNT19 trên địa bàn.
Đây là dự án do Công ty cổ phần Bột - Giấy làm chủ đầu tư, đang trong giai đoạn xây dựng và lắp đặt thiết bị tại mặt bằng trên diện tích khoảng 117ha. Dự án này cũng đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường thẩm định, phê duyệt báo cáo tác động môi trường từ tháng 9/2015. Mặt bằng dự án ban đầu là 70ha, tới giai đoạn sau sẽ là 130 ha.
Để nhà máy giấy đi vào hoạt động, công ty sẽ phải có nguồn cung cấp nước và UBND tỉnh Quảng Ngãi đã cho phép phá 50ha rừng dừa nước để làm hồ chứa này.
Ông Nguyễn Thế Nhân, Chủ tịch UBND xã Bình Phước cho biết, rừng dừa nước có giá trị lịch sử, che bộ đội du kích trong kháng chiến. Đây cũng là mảnh đất kiếm kế sinh nhai cho nhiều gia đình. Việc pháo hủy tới 50ha/ 70ha diện tích dừa nước ở đây khiến người dân tiếc nuối.
Ông Nhân cho biết, ngày nay, ít người còn sử dụng dừa nước nhiều như trước, nên rừng dừa Cà Ninh không còn hiệu quả kinh tế như trước. Rừng dừa Cà Ninh trở thành “lựa chọn” cho xây dựng bể chứa nước phục vụ Nhà máy Bột-Giấy.
Bà Hà Thị Anh Thư, Bí thư Huyện ủy Bình Sơn (Quảng Ngãi), xác nhận trên Báo Thanh niên :“Quan điểm của huyện là ủng hộ chủ trương của tỉnh trong việc thu hồi đất để làm dự án. Tuy nhiên, không thể đánh đổi môi trường để phát triển kinh tế. Do vậy, nhà đầu tư cần phải trồng lại diện tích rừng thay thế nhằm đảm bảo cân bằng môi trường sinh thái trong khu vực”.
Cũng theo bà, Sở NN-PTNT Quảng Ngãi yêu cầu nhà đầu tư phải nộp cho quỹ phát triển rừng của tỉnh khoảng 500 triệu đồng/ha để trồng lại rừng dừa nước.
Ông Nguyễn Thế Nhân cho rằng qua các lần tổ chức họp, người dân đồng ý phá rừng dừa nước để làm hồ chứa nước nhưng nhiều người băn khoăn, lo lắng về vấn đề môi trường.
“Khoảng 20 ha rừng dừa nước nằm ngoài phạm vi hồ chứa nước thuộc sở hữu của người dân, cơ quan chức năng cần lấy tiền đền bù của chủ đầu tư mua lại để chuyển thành rừng phòng hộ, giữ môi trường sinh thái trong vùng”, ông Nhân kiến nghị.
Đường ống nước thải nhà máy giấy đổ thẳng ra biển, phải đặt ngầm hay "phơi" lên?
Theo báo cáo đánh giá tác động môi trường, thì vị trí xả thải của Dự án tại vịnh Việt Thanh (thôn Lệ Thủy, xã Bình Trị, huyện Bình Sơn) cách bờ biển khoảng 500m - 1,5 km. Và với vị trí xả thải này, thì chủ đầu tư Dự án sẽ phải lắp đặt ống ngầm dưới nước, giống như trường hợp của nhà máy thép Formosa Hà Tĩnh.
Song lãnh đạo tỉnh Quảng Ngãi băn khoăn, đó là “vấn đề này có đảm bảo đúng các quy định của pháp luật Việt Nam hay không?”
Thông tin từ UBND tỉnh Quảng Ngãi, vì lo ngại điều này, ngay từ năm 2011, lãnh đạo tỉnh đã đề nghị chủ đầu tư trong quá trình thiết kế, xây dựng nhà máy, phải xây dựng một hồ nuôi cá bằng nước thải của nhà máy trước khi thải ra biển nhằm kiểm nghiệm tiêu chuẩn nước thải trước khi thải ra môi trường.
Tuy nhiên, trong báo cáo đánh giá tác động môi trường của Dự án vào tháng 9/2015 lại không nhắc tới vấn đề này.
Do vậy, UBND tỉnh Quảng Ngãi đã đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường xem xét yêu cầu chủ đầu tư xây dựng hồ chỉ thị sinh học để kiểm chứng chất lượng nước thải sau khi xử lý trước khi xả thải ra môi trường, hoặc có ý kiến chính thức về vấn đề này.
Quảng cáo dùng máy móc tốt nhưng lắp đặt máy cũ chất lượng tồi
Khi chấp thuận dự án, tỉnh Quảng Ngãi yêu cầu chủ đầu tư phải sử dụng công nghệ tiên tiến, máy móc, thiết bị hiện đại, đồng bộ, quy trình công nghệ khép kín, đáp ứng điều kiện về các chỉ tiêu kinh tế và đảm bảo không gây ô nhiễm môi trường.
Tuy nhiên, trên thực tế Công ty CP bột - giấy VNT19 không lắp đặt máy móc thiết bị mới mà nhập khẩu máy móc, thiết bị cũ, đã qua sử dụng.
Hiện, tỉnh Quảng Ngãi đã đề nghị Bộ KH-CN hỗ trợ kiểm tra, giám sát việc thẩm định, giám định máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ dự án Nhà máy bột - giấy VNT19.
- Đất Việt -
Thuế bảo vệ môi trường: Có thực vì môi trường?
Lộ trình mà Chính phủ vạch ra để Luật thuế bảo vệ môi trường (BVMT) sửa đổi được thông qua chỉ trong bốn tháng:
trình dự án luật tại kỳ họp Quốc hội tháng 6, được thẩm tra bởi Ủy ban Tài chính - ngân sách Quốc hội tháng 7, trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét tháng 8, gửi đại biểu Quốc hội cho ý kiến tháng 9 và trình Quốc hội xem xét thông qua tháng 10 năm nay.
Một đạo luật ảnh hưởng trực tiếp và sâu rộng đến túi tiền của người dân nhưng các cơ quan quản lý nhà nước lại mong muốn được thông qua với một lộ trình “thần tốc” như vậy, liệu các tác động tiêu cực khi sửa đổi luật có được xem xét thấu đáo và toàn diện?
Thủ phạm chính gây ô nhiễm được nương nhẹ
Luật thuế BVMT hiện hành quy định khung thuế các sản phẩm xăng dầu và đã áp dụng kịch khung thuế xăng, nhiên liệu bay và dầu diesel.
Trọng tâm của dự thảo Luật thuế BVMT sửa đổi là đề xuất tăng khung thuế của xăng, nhiên liệu bay và dầu diesel, trong khi đó các sản phẩm than đá được giữ nguyên khung thuế. So sánh nguồn thu thuế BVMT giữa xăng dầu, than đá và các loại khác từ số liệu thống kê của Bộ Tài chính trong các năm qua để thấy rõ sự chênh lệch về nguồn thu trong biểu đồ sau (xem biểu đồ 1).
Tổng hợp cho thấy đóng góp thuế BVMT từ than đá giảm, trong khi đóng góp từ xăng dầu liên tục tăng trong tổng nguồn thu thuế BVMT. Từ đó có thể nói xăng dầu đang đóng vai trò xương sống về nguồn thu thuế BVMT trong thời gian qua tại Việt Nam và dự kiến trong những năm tới.
Luật hiện hành định nghĩa: “Thuế BVMT là loại thuế gián thu, thu vào sản phẩm, hàng hóa khi sử dụng gây tác động xấu đến môi trường”.
Như vậy, có thể hiểu rằng “tác động xấu đến môi trường” chính là thước đo để tính thuế, là cơ sở để quyết định mức thuế của mỗi loại sản phẩm, hàng hóa là cao hay thấp.
Hãy so sánh tác động môi trường giữa xăng dầu và than đá để thấy rõ Luật thuế BVMT hiện hành và dự thảo sửa đổi có một sự ưu ái về thuế một cách đáng ngạc nhiên và khó hiểu đối với than đá.
Theo thống kê của Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA), tổng phát thải CO2 do tất cả các hoạt động đốt nhiên liệu của Việt Nam năm 2014 là 143,3 triệu tấn, trong đó than đá đóng góp 55%, xăng dầu 30% và khí 15%, có nghĩa than đá mới chính là nguồn phát thải gây ô nhiễm chi phối tại Việt Nam, chứ không phải xăng dầu.
Biểu đồ 2 hiển thị rõ hơn về diễn biến phát thải CO2 từ các nguồn nhiên liệu khác nhau tại Việt Nam, trong đó than đá vượt qua xăng dầu từ năm 2006 và chi phối tổng lượng phát thải cho đến nay.
Cũng từ số liệu của IEA về đốt nhiên liệu, ngành sản xuất điện năng và nhiệt năng Việt Nam đóng góp 35% lượng phát thải CO2, ngành công nghiệp và xây dựng đóng góp 34% lượng phát thải CO2, trong khi đó ngành giao thông chỉ đóng góp 22% lượng phát thải CO2.
Điều đó có nghĩa rằng giao thông, một ngành đang sử dụng nhiên liệu là xăng dầu để hoạt động, không phải là ngành gây ô nhiễm chính tại Việt Nam, nhưng xăng dầu phải “đóng vai trò chủ đạo” về BVMT một cách bất đắc dĩ thông qua việc phải đóng góp tới 98% nguồn thu thuế BVMT như hiện nay.
Trong khi đó, các ngành công nghiệp nặng sử dụng rộng rãi than đá, có nguy cơ ô nhiễm cao như sản xuất điện năng (nhà máy nhiệt điện than), công nghiệp luyện thép, ximăng, hóa chất... đang tận hưởng chính sách ưu đãi thuế BVMT một cách “bất ngờ”.
Đó là xét về mặt vĩ mô của nền kinh tế, hãy xem tiếp về vi mô trên quan điểm so sánh tác động môi trường của mỗi đơn vị sản phẩm xăng dầu và than đá cũng như mối tương quan về mức thuế BVMT hiện nay.
Theo số liệu của Cơ quan Thông tin năng lượng Hoa Kỳ (USEIA), để cùng tạo ra một đơn vị năng lượng như nhau (Kcal, mmBtu hoặc GJ), lượng phát thải từ đốt than cao hơn từ đốt dầu với từng chất ô nhiễm không khí cụ thể như sau: SO2 gấp 2,3 lần; bụi gấp 32,7 lần; CO2 gấp 6,3 lần và thủy ngân gấp 2,3 lần.
Tất nhiên, lượng phát thải cao hay thấp còn tùy thuộc vào từng loại than hay từng loại xăng dầu cũng như công nghệ đốt, điều kiện vận hành, tuổi thọ thiết bị... nhưng xét về bản chất thành phần hóa học, than đá rõ ràng “dơ bẩn” hơn xăng dầu nhiều lần.
Ví dụ, hàm lượng lưu huỳnh tối đa trong xăng A92 là 350 mg/kg, trong dầu diesel (DO 0.05S) là 500 mg/kg (theo tiêu chuẩn của Petrolimex TCCS 01:2015/PLX và TCCS 03:2015/PLX) so với hàm lượng lưu huỳnh tối đa trong than là 1,75-9%, tương đương với 17.500-90.000 mg/kg (tùy loại than, theo tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 8910:2011), hoặc độ tro trong dầu diesel (DO 0.05S) chỉ là 0,01% trong khi trong than cho phép từ 3-45%.
Nghĩa là hàm lượng lưu huỳnh trong than cao hơn từ 35-257 lần trong xăng dầu, hàm lượng tro trong than cao hơn từ 300-4.500 lần trong xăng dầu! Điều này giải thích vì sao đốt than gây ô nhiễm không khí nghiêm trọng vượt bậc so với đốt xăng dầu.
Với mức thuế BVMT hiện hành, so với than đá, xăng cao gấp 80 lần, dầu diesel cao gấp 40 lần (tính với mức thuế tối đa), liên tưởng đến thước đo “tác động xấu đến môi trường” với những phân tích so sánh về tác động môi trường của xăng dầu và than đá trên đây, rõ ràng Luật thuế BVMT hiện hành và dự thảo Luật thuế BVMT sửa đổi đang nương nhẹ với than đá một cách khó hiểu!
Phải chăng mức thuế thấp đó chính là động lực thu hút đầu tư tràn lan các nhà máy nhiệt điện than trong thời gian qua? Hay ngược lại, đánh thuế BVMT cực thấp đối với than để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư phát triển nhiệt điện than?
Tăng nguồn thu thuế, cách nào?
Theo Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), việc xem xét đánh thuế nhiên liệu hóa thạch chủ yếu dựa trên mức độ đóng góp tác động đến biến đổi khí hậu và mức độ gây ô nhiễm không khí, từ đó cơ sở đánh thuế nhiên liệu là dựa trên phát thải carbon (tấn CO2 tương đương) hoặc dựa trên đơn vị nhiệt lượng (Kcal, mmBtu hoặc GJ).
Áp dụng cách tiếp cận dựa trên phát thải carbon để quy đổi thuế BVMT hiện nay với xăng, dầu diesel và than theo thuế carbon trong biểu đồ 3 (xem bảng 1).
Theo tổng hợp của Ngân hàng Thế giới (WB), tính đến tháng 2-2017 đã có 24 quốc gia và vùng lãnh thổ đánh thuế carbon, trong đó mức thuế cao nhất là 130 USD/tấn tại Thụy Điển, mức thuế thấp nhất là 1 USD/tấn tại Ba Lan.
85% mức thuế đang áp dụng thấp hơn 10 USD/tấn tại Iceland, Latvia, Estonia, Bồ Đào Nha, Hàn Quốc, New Zealand, Nhật Bản...
Nếu so sánh mức thuế này với thuế BVMT hiện nay tại Việt Nam, thuế BVMT của xăng cao gấp 7,5 lần và của dầu diesel cao gấp 3,3 lần, trong khi của than đá chỉ bằng 1/1.250 lần mức trung bình của thế giới! Thật khó tìm ra cơ sở khoa học để lý giải cho sự bất hợp lý này.
Do vậy, để gọi là “hội nhập quốc tế”, nên chăng quy định một mức thuế đồng bộ 10 USD/tấn carbon cho tất cả các loại nhiên liệu hiện nay trong khung thuế BVMT sửa đổi? (xem bảng 2).
Do việc áp dụng mức thuế BVMT sửa đổi dựa trên giá carbon như trên có thể dẫn đến sự sụt giảm tổng số thu thuế BVMT của năm 2017 so với năm 2016, nên “để đảm bảo hài hòa lợi ích giữa Nhà nước và nhân dân”, mức thuế điều chỉnh 1.000 đồng/lít xăng dầu và 1.000 đồng/kg than đá được đề nghị (xem bảng 3).
Với mức thuế BVMT này, nguồn thu thuế từ than đá là 45.000 tỉ đồng, từ xăng là 2.800 tỉ đồng và từ dầu diesel là 3.800 tỉ đồng, tổng cộng là 51.600 tỉ đồng, tăng đến 10.538 tỉ đồng so với năm 2016.
Theo việc phát triển mạnh của các nhà máy nhiệt điện than, chắc chắn cách tiếp cận này sẽ làm cho tổng thu thuế BVMT tăng nhanh trong những năm tới.
Cụ thể, theo quyết định số 403/QĐ-TTg ngày 14-3-2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch phát triển ngành than Việt Nam đến năm 2020, có xét triển vọng đến năm 2030, dự kiến tiêu thụ than năm 2020 là 86,4 triệu tấn, năm 2025 là 121,5 triệu tấn và năm 2030 là 156,6 triệu tấn.
Nghĩa là, số thu thuế BVMT chỉ riêng với than đá năm 2020 là 86.400 tỉ đồng, năm 2025 là 121.500 tỉ đồng và năm 2030 là 156.600 tỉ đồng. Đó thực sự là những con số mơ ước cho ngân sách nhưng vẫn đảm bảo tính công bằng về thuế khi xét đến khả năng gây “tác động xấu đến môi trường” của từng loại nhiên liệu đã đề cập.
Như tên gọi của nó, Luật thuế BVMT ra đời nhằm thu thuế để Nhà nước thực hiện điều tiết việc BVMT.
Luật thuế BVMT hiện hành và dự thảo sửa đổi chỉ quy định việc thu thuế nhưng lại không hề quy định số thu thuế sẽ được quản lý và sử dụng như thế nào, đây rõ ràng là một thiếu sót rất lớn dẫn đến việc sử dụng sai ngân sách lẽ ra phải dùng cho việc BVMT.
Điều này cũng là cơ sở để người dân đặt câu hỏi về sự minh bạch trong sử dụng thuế BVMT thời gian qua. Nghĩa là, muốn “tăng thu thuế môi trường sẽ được lòng dân hơn”, chỉ có cách sử dụng toàn bộ thuế BVMT thu được để đầu tư ngược lại cho các hoạt động BVMT.
“Động viên hợp lý đóng góp của xã hội, tạo thêm nguồn thu cho ngân sách” để không “gây thiệt hại cho quốc gia” thông qua đề xuất tăng thuế BVMT mà chủ yếu là tăng thuế xăng dầu như hiện nay rõ ràng không phải là cách tiếp cận hài hòa khi còn nhiều câu hỏi về việc thu thuế và sử dụng tiền thuế chưa trả lời được.
Thu thuế BVMT là để BVMT, thuế BVMT không thể nào đóng vai trò gì khác!
- Tuổi trẻ -
Đọc nhiều nhất
-
200 câu hỏi và trả lời về môi trường
Mời mọi người tham khảo đáp án của 200 câu hỏi về môi trường theo đường link sau: https://drive.google.com/file/d/0B1KcEgJqwSp9bnBaemw0e... -
Lợi ích của năng lượng gió với con người và môi trường
Năng lượng gió mang lại rất nhiều lợi ích không chỉ cho các khách hàng mà còn cho cả xã hội. Một vài lợi ích có thể nhìn thấy rõ ràng như... -
245 Người dân Hà Nội gửi kiến nghị phản đối dự án Sun Grand City Quảng An - Hồ Tây
Ngày 30/9/2017, với những lời kêu gọi được đăng tải trên mạng facebook phản đối việc thi công dự án Sun Grand City Quảng An... -
Hà Nội chịu tác động khí thải của 20 nhà máy nhiệt điện than
Tại buổi hội thảo về ô nhiễm không khí được tổ chức vào tối 5-6, hầu hết các chuyên gia đều cho rằng, ô nhiễm không khí tại Thủ đô Hà ... -
Thành viên Green Trees - Cao Vĩnh Thịnh tiếp tục bị công an và an ninh Việt Nam gây sức ép
Ảnh trên trang cá nhân của Cao Vĩnh Thịnh chụp cùng ngài đại sứ quán Czech trong ngày kỷ niệm Quốc tế Nhân Quyền. Ngày 25/12/202... -
Đánh đổi rừng nguyên sinh Tam Đảo II vì lợi ích kinh tế - Từ góc nhìn báo chí trong và ngoài nước
Dưới đây là nội dung được dịch từ tờ báo thevietnamese.org với tiêu đề: Tiếng kêu cứu từ rừng nhiệt đới Việt Nam. https://ww... -
Nhà văn Nguyên Ngọc " Con hổ của rừng Tây Nguyên "
Tôi tới thăm nhà văn Nguyên Ngọc vào một ngày trời rất đẹp, có chút hửng nắng tại Hội An. Trước đó thì cả tuần lúc nào trời cũng mưa tầm tã...
Tham khảo
Phân loại
Tin môi trường
(75)
Môi trường
(43)
Tin tức
(31)
Formosa
(29)
Tin hoạt động
(28)
Sự kiện
(24)
Bình luận & Nhận định
(23)
Video
(18)
Kiến thức về môi trường
(17)
Báo cáo môi trường
(8)
Luật môi trường
(8)
Phát triển bền vững
(8)
Tư liệu
(8)
Chiến lược & Chính sách
(4)
Kinh tế xanh
(4)
Tin công nghệ
(4)
Tiết kiệm năng lượng
(3)
Tản mạn
(1)
Theo thời gian